Nghĩa là tập thơ này được ấp ủ trong thời gian gần 10 năm. Quả thật, khi đã giành nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có Giải thưởng Nhà nước về Văn học-Nghệ thuật và Giải thưởng Quốc tế ASEAN, thì việc công bố một tập thơ mới là chuyện phải cân nhắc, nhất là với một nhà thơ cựu chiến binh đã nổi tiếng từ những năm ở chiến trường đánh Mỹ như Nguyễn Đức Mậu.

Bài thơ "Cánh ong vàng" mở đầu tập cho thấy tâm trạng của người viết:

Giữa khô cằn nhàm cũ
Ta sợ mình biến thành ong thợ
Dòng thơ sáo mòn câu chữ chẳng lên hương
Dường như có tiếng gì vang động
Ở trong ta hay ở phía con đường?

Hoặc như trong bài thơ “Không gian hẹp”, ngoài hiện thực là Trong căn phòng chín mét vuông có bốn người ở (chưa kể một con mèo và đôi khi có khách trọ), với Nguyễn Đức Mậu, nó còn có ý nghĩa tượng trưng về sự chật chội, bó hẹp của không gian sáng tạo. Bởi vì Thơ khao khát một không gian mở/ Trang giấy phập phồng muốn hóa cánh diều bay…Qua đó cho thấy Nguyễn Đức Mậu, một nhà thơ thường băn khoăn, trăn trở về số phận của thơ, về công việc làm thơ. Cũng đúng thôi, vì với người làm thơ sớm, coi thơ như là nghiệp, như là vận mệnh của mình thì sao có thể thờ ơ trước cảnh:

Thơ được bán được cho
Thơ viết trên băng rôn, giấy dó
Thơ được đọc vang, thơ được thét gào
Thơ được hát và thơ được múa
Thơ khăn xếp áo dài. Thơ com-lê, áo đỏ
Thơ đang tự tìm mình, thơ lắm ngả đường đi...
 (Trình diễn thơ)

leftcenterrightdel
Trang bìa tập thơ "Cháy trong mưa". 

Cũng trong bài thơ trên đây, tác giả không phản đối hay bài xích những cách tân thơ cũng như những hình thức công bố, quảng bá thơ. Đó là thái độ bình tĩnh và khoa học: Thôi thì hãy xem hôm nay là ngày hội/ Thơ ồn ào buổi chợ đang đông/ Ngày mai trước cánh đồng trang giấy/ Thơ một mình, một bóng, ngọn đèn chong...

Với Nguyễn Đức Mậu, công việc làm thơ thật là vất vả vô cùng. Trước trang giấy trắng mà như trước núi cao nghìn trùng, như trên sa mạc khô rang nóng bỏng: Nhiều khi trước trang giấy trắng/ Núi dựng vô hình không dễ qua/ Sa mạc vô hình không dễ vượt/ Ta sợ sự cũ mòn/ Tìm cách gì thoát xác… (Trước trang giấy trắng)

Sự mòn cũ, trơ lỳ có thể nói là nỗi ám ảnh khá lớn với một nhà thơ chuyên nghiệp như tác giả. Bởi thế mà: Có ngày thích đọc, sợ viết/ Thấy con chữ trơ ra, lì lợm cỗi cằn/ Có ngày ngồi trước trang giấy thật lâu/ Nhận diện tỉ tê cùng bóng hình con chữ... (Lối mở). Rồi có lúc, ngay cả sự “thích đọc” cũng xao nhãng, chậm chạp: Mình vẩn vơ nhìn con sên ngoài cửa sổ/ Trang sách mở ra không đọc được điều gì/ Thế mà hết một buổi chiều tư lự/ Nhìn con sên leo tường từng vệt nhỏ li ti... (Nhìn con sên trên tường). Ấy là lúc tác giả nhận ra: Khi tình đã “nhạt chiều”, khi lòng đã cạn vơi thì làm sao có thể viết? Dù là viết về tình yêu hay mọi đề tài: Nhiều cái nhạt sao cất thành men rượu/ Nhiều trống rỗng cũ mòn sao nói được lời yêu? (Nhạt chiều).

Lúc ấy, chỉ có hai cách lựa chọn: Một là ngừng viết; hai là phải viết khác đi, phải không được theo lối mòn dễ dãi. Kinh nghiệm cá nhân của Nguyễn Đức Mậu là cần phải “lặng nhìn” một cách chăm chú: Nhìn thật lâu vòm trời xa xanh/ Mình sẽ gặp vòm trời xanh khác... (Lặng nhìn). Cùng với lặng nhìn là lắng nghe những tiếng tạo vật quanh mình: Trong tiếng có hình, trong hình có tiếng... (Nghe). Khi nhìn không rõ thì nghe, khi nghe không rõ thì nhìn, nghe nhìn bổ sung cho nhau để nhận thức và cảm thụ thế giới: Có khi nghe rõ/ Mà nhìn không ra?/ Có khi nhìn rõ/ Mà nghe nhạt nhòa... (Nghe). Theo hướng đó, nhà thơ đã nghe được “Tiếng nấc dòng sông” và nhìn thấy cảnh con sông hiền lành đang ô nhiễm:

Dòng sông ngầu đen, vệt dầu loang mặt nước
Những mảng túi ni lông như đàn vịt dạt bờ
Khói nhà máy đùn cao khiến mặt trăng chìm lấp
Dòng sông nhọc nhằn trôi cùng xác cá vật vờ.
(Tiếng nấc dòng sông)

Và cũng theo hướng đó, nhà thơ đã nhìn thấy “Người ngồi trước mộ mình”, nhìn thấy niềm khát vọng của hoa phượng “Cháy trong mưa”, nhìn thấy “Chiều sương”, thấy “Chiếc xe chở đõ ong lăn bánh”, nhìn thấy “Đêm trăng New York”, nhìn thấy “Vòm cây bên cửa sổ”, thấy “Ngôi nhà cũ Xuân Diệu ở”... (tên các bài thơ trong tập)... Và thấy cả những điều người ta không thấy trong bát rượu uống ở Mèo Vạc, Hà Giang: Con đường lên nương bậc đá vẹt mòn/ Hạt ngô thành mùa ngô. Mùa ngô thành rượu uống/ Trong bát rượu ta cầm như thấp thoáng/ Mây trắng, sương mù và bóng áo chàm xanh/ Ngoài quán rượu đỉnh trời lóa nắng/ Con bò cày trên dốc đá chênh vênh… (Uống rượu ở Mèo Vạc).

Trong tập Kỷ yếu Nhà văn Việt Nam hiện đại (NXB Hội Nhà văn, 2010), ở danh mục “Nguyễn Đức Mậu”, nhà thơ đã tự suy nghĩ về nghề bằng mấy câu thơ:

Khi mọi buồn vui trong lòng vơi cạn
Khi con tằm thiếu lá dâu xanh
Tôi lo sợ những hạt xoàn giả tạo
Những câu thơ tự trang điểm cho mình.

Tập thơ "Cháy trong mưa" đã trung thành với những điều nhà thơ tâm niệm. Tôi hình dung nhà thơ Nguyễn Đức Mậu như một cầu thủ chuyên  nghiệp chơi “bóng thơ”; một lối chơi vừa giống lại vừa không giống như chơi bóng đá: Trái bóng tròn, mặt trời cuồng nhiệt/ Cờ và hoa choáng ngợp sắc màu/ Trái bóng thơ sân chơi lặng lẽ/ Một ngọn đèn trang giấy trắng đêm thâu... (Đêm chờ xem World Cup). Ấy chỉ là cảm nhận qua một tập thơ vừa xuất bản; trong đồ sộ gia tài văn chương đã công bố, thuộc nhiều thể loại và nhiều đề tài của nhà thơ lính trận Nguyễn Đức Mậu.

VŨ NHO