Gần một trăm năm kể từ lúc thực dân Pháp đặt chân xâm lược đất nước ta (năm 1858) và cuối cùng chúng phải cuốn gói. Nhưng nước ta lại chịu nỗi đau chia cắt. Phía Nam Vĩ tuyến 17, Mỹ kế chân Pháp, dựng chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, phá tổng tuyển cử, âm mưu xâm chiếm lâu dài nước ta. Năm 1959, đồng bào miền Nam nổi dậy đồng khởi tự bảo vệ mình, đấu tranh thực hiện thống nhất đất nước. Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập.
Miền Bắc bắt đầu những cuộc tiễn đưa người vào tiền tuyến lớn-miền Nam. Trước còn lẻ tẻ, âm thầm, sau thành việc của mọi cơ quan, mọi làng xóm, mọi gia đình. Báo chí chưa nói đến. Nhưng lòng người, ngày Bắc đêm Nam, thường xuyên nghĩ tới. Ngày 5-8-1964, xâm lược Mỹ mang máy bay ra ném bom miền Bắc. Tù binh phi công Mỹ đầu tiên, Everett Alvarez bắt đầu "đăng ký thường trú" ở nhà tù Hỏa Lò Hà Nội. Tuần báo Văn nghệ, tiếng nói của giới nhà văn miền Bắc, ngay sau đó ra số đặc biệt chào mừng trận đầu miền Bắc thắng không lực Mỹ. Hai trang thơ nóng hổi cảm xúc người đánh giặc. Trong đó có hai bài ở lại mãi với lòng dân dù cuộc chiến đã đi qua hơn nửa thế kỷ. Đó là bài “Sao chiến thắng” của Chế Lan Viên, viết ngày 11-8-1964, mỗi tên đất quê hương, trong tầm đạn giặc, được nhà thơ nhắc đến, bỗng nhiên làm xao xuyến tâm hồn mọi người nghe:
Hãy yêu! Hãy yêu! Hãy yêu và bảo vệ
Mây nước, cửa nhà, văn học, ngữ ngôn...
Một đảo vắng Hòn Ngư còn chớp bể
Một rặng núi Kỳ Sơn từng lắm lúc mưa nguồn
Bài thứ hai là của một nhà thơ thuộc lớp trẻ, hình thành sau kháng chiến chống Pháp-anh Nguyễn Mỹ, sinh năm 1935, tại xã An Nghiệp, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Năm 16 tuổi, Nguyễn Mỹ tham gia bộ đội địa phương rồi tập kết ra miền Bắc năm 1954. Sau đó, anh ra quân, đi học và về làm biên tập cho Nhà xuất bản Phổ Thông, ở phố Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hà Nội. Nguyễn Mỹ viết “Cuộc chia ly màu đỏ” ngay sau trận đầu miền Bắc bắn rơi máy bay xâm lược Mỹ. Đề tài thơ là tiễn người ra trận. Từ thơ cổ điển đến thơ hiện đại, đề tài này không thiếu. Nhưng trong thơ xưa, khi cuộc chiến không hẳn là của họ, vì họ, người đi hay người tiễn, dù áo mão trống kèn có hào hùng đến đâu, như trong “Chinh phụ ngâm”: “Áo chàng đỏ tựa ráng pha/ Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in/ Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống”, cũng không giấu được nỗi buồn đau thấm thía của người vợ tiễn chồng: “Bên đường trông lá cờ bay ngùi ngùi” và nỗi than “đứt ruột” của chị với cây liễu, cây dương bên đường cũng là tên đất Doanh Liễu, Tràng Dương, nơi người chồng đang bước chân qua: “Liễu, Dương biết thiếp đoạn trường này chăng?”.
Nhưng đến thời chúng ta, bài “Thăm lúa” của Trần Hữu Thung, viết trong kháng chiến chống Pháp (ngày 1-1-1950) và bài “Cuộc chia ly màu đỏ” này là cuộc chiến giành độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Cuộc chiến được bắt đầu từ ngày “Tây đánh Cửa Hàn” (Đà Nẵng) năm 1858, bao nhiêu thế hệ đã nối nhau chiến đấu và hy sinh. Người dân của thời cuộc này đã ý thức sâu sắc được việc họ làm. Và điều này, trong bài thơ của Nguyễn Mỹ, rất đáng nói. Là cuộc chiến đang còn gian khổ lắm, cả nhân loại tiến bộ đã ủng hộ Việt Nam, kể cả nhân dân Mỹ, nhưng sức mạnh bạo lực của quân xâm lược đang ở hàng đầu thế giới. Trong bài thơ, Nguyễn Mỹ rất ý tứ khi nói đến thắng lợi cuối cùng và tất yếu của chúng ta, anh không làm người phát ngôn khẳng định. Anh chỉ khẳng định niềm tin của mình. Còn khẳng định hiện thực, anh dành quyền phát ngôn cho người làm chứng lặng im, một cây si xanh:
Cây si xanh gọi họ đến ngồi
Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai
Ngày mai sẽ là ngày sum họp
Đã tỏa sáng. Những tâm hồn cao đẹp
Nắng vẫn còn ngời trên mắt lá si
Và người chồng ấy đã ra đi.
Cây si xanh ở công viên, ngay nơi những cuộc đưa tiễn, đã chứng kiến không phải một, mà biết bao nhiêu cuộc chia ly như thế, ngay dưới bóng rợp của mình, dưới ánh nhìn của hàng nghìn, hàng vạn con mắt lá. “Và người chồng ấy đã ra đi”. Nhẹ nhàng, thanh thản! Đến gió cũng không nén được lời bình luận ngợi ca. Cả đoạn thơ cuối, liền một hơi 8 câu, vẫn là lời khẳng định của niềm tin, nhưng trong hơi thơ trùng điệp, chúng ta nhận ra một niềm tin sắt đá: “Nhưng tôi biết cái màu đỏ ấy/ Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy/ Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi/ Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người...”. Mạch thơ cứ thế trôi đi, liền mạch, hối hả cho đến câu thơ kết:
Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi
Như không hề có cuộc chia ly...
Sau đó không lâu, mùa hè năm 1966, Nguyễn Mỹ cũng là người ra đi. Anh về lại quê hương chiến đấu. Nhưng anh không có mặt trong ngày đoàn tụ năm 1975. Anh đã nằm lại ven rừng quế Trà My, năm 1971. Bài thơ “Cuộc chia ly màu đỏ” đã thành một mốc son thơ ca trong tiến trình văn học Việt Nam.
Cùng với Nguyễn Mỹ, trước và sau Nguyễn Mỹ, cả một hệ nhà thơ đã thành chiến sĩ ở mọi vị trí chiến đấu. Những bài thơ tạo nên vẻ đẹp tinh thần chưa từng có của nền thơ đánh giặc nước ta. Nhiều người đã nằm lại dọc đường, nhưng thơ của họ đi tiếp về ngày 30-4-1975 và bay cùng màu cờ giải phóng trên nóc dinh Độc Lập.
Buổi chiều ấy, chiều 30-4-1975. Trên thảm cỏ rộng trước dinh Độc Lập, các anh bộ đội Giải phóng quân và thanh niên nam nữ Sài Gòn nhìn nhau, ngỡ ngàng, thân ái, rất muốn quen nhau, nhưng mê mải gì thì cũng phải tự nấu bữa cơm hành quân như mấy chục năm qua, như cả trăm năm qua, từ thuở Trương Định, thủ khoa Huân, từ thuở Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám đã nấu... Trong các anh bộ đội đang tíu tít ấy, có một anh bộ đội làm thơ, khi ấy anh là lính xe tăng và sau này, trong nhiều năm, anh là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam. Trong đầu anh đang ghi những câu thơ lính tăng quân Giải phóng nấu cơm chiều trong dinh Độc Lập, một bối cảnh hạnh phúc không ai ngờ được trước. Tôi đoán chắc thế, vì chúng ta đã có bài thơ ấy, tôi sắp nói ngay đây. Anh lính ấy là Nguyễn Hữu Thỉnh. Trên đường cùng xe tăng vào trận, anh đã đi qua vùng đất mà người anh ruột anh hy sinh. Bài thơ “Phan Thiết có anh tôi” với câu thơ thật thà đến sững lại nhói đau: “Em một mình đứng khóc ở sau xe” sẽ là một dấu tích tâm hồn không phai mờ trong suốt đời người lính ấy.
Tôi xin được trở lại bài thơ “Bữa cơm chiều trong dinh Độc Lập”, chiều 30-4-1975 của Hữu Thỉnh, bữa cơm của lính hành quân nhưng không hề giống bữa cơm nào anh đã trải qua. Các chi tiết của cả hai tính chất ấy tác giả có nêu trong thơ. Ai viết về đề tài này chắc không thể quên các chi tiết ấy. Nó lạ và hơn thế, nó là niềm hạnh phúc lớn trong đời. Khác là cơm dã chiến nhưng nấu bằng bếp điện, là ngồi vào mâm rồi bạn cùng mâm còn muốn nhìn nhau chưa ai muốn mở vung. Giống là rau muống cũng xanh như mọi bữa, như hái ở ao nhà và xe tăng vẫn dàn theo đội hình chiến đấu, dù rằng pháo và hoa đang đầy ắp vòm trời. Cứ thế, bạn đọc thơ dễ như đọc phóng sự. Và chất thơ sâu sắc nhất, nhớ đời nhất lại là ở các chi tiết phóng sự ấy. “Ta no cười nói, say đôi mắt”. No, say mà đâu cần ăn, cần uống. Hạnh phúc của nhà thơ lúc này không phải là làm thơ mà là sự có mặt ở nơi ấy, được đứng ở nơi ấy mà reo lên với nước non:
Độc lập theo tăng vào cổng chính
Cờ treo trên đỉnh nước non ơi!
Đấy là thơ thời sự, thơ tốc tả. Nó lưu giữ được không gian, không khí của những khoảnh khắc. Thiếu nó, thì có đọc nghìn trang lý lẽ, người ta vẫn không cảm nhận được khoảnh khắc ấy. Còn để người đọc thấy được tầm vóc lịch sử, thấy được ý nghĩa của sự kiện tác động đến mỗi người dân, chúng ta có những bài khác. Tôi xin giới thiệu ở đây chương đầu trong bài thơ dài “Ngày hòa bình đầu tiên” trong tập thơ “Một chấm xanh” của Phùng Khắc Bắc. Bài thơ được viết năm 1985, mười năm sau ngày thống nhất đất nước, khi đất nước đang gieo neo về kinh tế, quay phía nào cũng gặp khó khăn trong vòng vây cấm vận. Trong bài thơ, người lính trận vừa bước ra từ chiến tranh lại cảm nhận như mình bước vào trận đánh mới, trận đánh ngay ở nhà mình. Cơn mưa trong đêm đầu trở về. Nhà dột. Anh lại mắc võng như khi ở chiến trường. Xưa lấy cây rừng làm cột buộc võng. Nay lấy cột làm cây. Anh nghe tiếng mưa rỏ xuống những thùng chậu, soong nồi như:
Nghe âm thanh chiến tranh trong người mình cất giọng
Trong đêm hòa bình đầu tiên
Quốc sách đổi mới đã hình thành từ tình thế ấy. Giờ đây nhìn cơ ngơi đất nước huy hoàng, chúng ta thấy ngay cuộc chiến không tiếng súng ấy quả là ác liệt nhưng chúng ta đã thắng. Và một chặng mới nữa đã lại bắt đầu: Một cuộc vươn mình của đất nước đã hoàn toàn độc lập, tự do.
Nhà thơ VŨ QUẦN PHƯƠNG