QĐND - Biển, đảo là nguồn cảm hứng bất tận của văn nghệ sĩ, là đề tài muôn đời muôn thuở của văn thơ. Hiếm có nhà văn, nhà thơ nào trong sự nghiệp sáng tác của mình mà không có ít nhất một lần viết về biển, đảo; kể cả những người chưa bao giờ nhìn thấy biển, đảo. Với mảng đề tài này, nếu càng cố gắng trích dẫn và liệt kê những tác giả và tác phẩm thì sẽ càng thiếu sót.

Sinh viên Học viện Âm nhạc Quốc gia hát cùng biển, đảo. Ảnh: Ngọc Hà

Lịch sử Văn học Việt Nam chỉ tính từ thời kỳ trung đại đến nay đã có biết bao áng văn chương tuyệt tác về biển, đảo, trong đó có tác phẩm của những bậc đế vương, như: Lê Thánh Tông, Thiệu Trị…; có tác phẩm của những danh nhân trí thức như: Trương Hán Siêu, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi, Đào Duy Từ, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Nguyễn Xuân Ôn, Trần Cao Vân, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng v.v. cùng rất nhiều những bài thơ, tập thơ về biển, đảo của các thế hệ nhà văn Việt Nam hiện đại và vô vàn những tác phẩm của những tác giả nghiệp dư, thậm chí là vô danh nhưng được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, như: Hoàng Sa, mây nước trùng trùng / Người đi thì có mà không thấy về…

Việt Nam là một quốc gia biển, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển, với hơn 3.260km bờ biển và diện tích biển hơn 1.000.000km2; trong đó có hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ và 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Đây là phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước bi tráng của dân tộc. Bởi vậy, đặc điểm nổi bật của thơ văn Việt Nam viết về biển, đảo xưa nay, bên cạnh cảm hứng lãng mạn, kỳ vĩ mà biển, đảo gợi nên, thì chủ yếu là ngợi ca giang sơn bờ cõi của đất nước, ngợi ca những võ công hiển hách gắn liền với những địa danh biển, đảo và khẳng định quyết tâm bảo vệ chủ quyền Tổ quốc thiêng liêng. Nói cách khác, các thế hệ nhà văn-nhà thơ Việt Nam viết về biển, đảo với cảm hứng công dân và tâm thế dân tộc là chủ đạo. Xưa là thế và nay càng thế! Đặc biệt những năm gần đây, thơ văn Việt Nam viết về biển, đảo là viết về những người lính Hải quân giữ biển, những ngư dân bám biển và lực lượng Kiểm ngư thực thi pháp luật trên biển; là tinh thần “cả nước hướng về Hoàng Sa, Trường Sa thân yêu” với những chứng cứ lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền và quyết tâm thực hiện chủ quyền thiêng liêng ấy.

Một ấn phẩm mới về biển, đảo của NXB Văn học.

Với cảm hứng, tâm thế và tinh thần ấy, những năm gần đây, mỗi khi chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc bị xâm phạm hoặc bị đe dọa xâm phạm, thì cùng với đồng chí, đồng bào cả nước, các nhà văn, nhà thơ của chúng ta, cả chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư, cũng rầm rộ “ra quân” ào ạt trên các phương tiện truyền thông. Nói một cách hình ảnh thì mỗi khi “biển Đông dậy sóng” thì văn thơ của ta cũng “dậy sóng”. Đó là điều rất đáng mừng, cho thấy ý thức công dân, tinh thần dân tộc vẫn luôn luôn thường trực trong mỗi nhà văn Việt Nam. Có điều là trong các “phong trào” sáng tác về biển, đảo ấy thì chỉ thơ là “áp đảo”, còn văn xuôi quá ít. Tất nhiên, văn xuôi, nhất là tiểu thuyết, cần có độ lùi về thời gian. Nhưng truyện ngắn và ký hay về biển, đảo đến thời điểm hiện nay vẫn còn hiếm thì thật đáng tiếc. Đến như cuộc thi truyện ngắn 2 năm 2013-2014 của Tạp chí Văn nghệ quân đội được coi là khá thành công, thì trong số hơn 100 tác phẩm được chọn đăng trên tạp chí trong suốt 2 năm, hầu như không có tác phẩm viết về biển, đảo và người lính biển hôm nay. Có chăng chỉ là những bài bút ký, ghi chép thiên về thông tấn báo chí được đăng tải sau mỗi chuyến đi Trường Sa và khu nhà giàn DK1 do Bộ tư lệnh Hải quân tổ chức.

Về thực trạng đáng tiếc trên đây của văn xuôi, xin được bàn tiếp vào một dịp khác. Trở lại với thơ viết về biển, đảo sau những đợt “biển Đông dậy sóng” vừa qua, có cảm giác như không khí thơ thời chống Mỹ cứu nước đã tái hiện, với nét nổi bật là sự cộng hưởng giữa nhà thơ với công chúng, với xã hội, với thời đại. Quả là có hiện tượng như vậy, chỉ khác là cái hào khí của thời “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, của “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”… đã để lại một loạt tên tuổi và một loạt tác phẩm thơ ca đi cùng năm tháng; còn thơ ca viết về biển, đảo trong thời gian gần đây, sau những cao trào rầm rộ thì sự lắng đọng lại trong trí nhớ độc giả và trong đời sống văn học không nhiều. Trong các cuộc đàm đạo văn chương, trong các diễn đàn văn học, trong các bài phê bình-giới thiệu tác phẩm về chủ đề này, thường chỉ một vài tác phẩm được nhớ, được nhắc đi nhắc lại, như: “Hào phóng thềm lục địa” của Nguyễn Thanh Mừng, “Tổ quốc nhìn từ biển” của Nguyễn Việt Chiến, “Tổ quốc gọi tên” của Nguyễn Phan Quế Mai, “Tổ quốc đường chân trời” của Nguyễn Trọng Văn, “Tổ quốc cánh sóng” của Huệ Triệu, “Mộ gió” của Trịnh Công Lộc, “Bài học biển” của Nguyễn Khoa Điềm, “Thao thức Trường Sa” của Nguyễn Thế Kỷ v.v.. Và cũng xin nói thật là trong số những bài thơ nổi trội trên đây, có bài được phổ biến rộng rãi chủ yếu nhờ vào sự hỗ trợ của âm nhạc và internet, có bài dễ nhớ dễ thuộc bởi sự hào sảng đại ngôn đại chúng. Nhìn chung rất hiếm bài có những câu thơ ấn tượng “để đời” như trong một số bài thơ và trường ca viết về chủ quyền biển, đảo của một số nhà thơ đương thời như Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa, Anh Ngọc, Ngô Xuân Hội… viết cách nay đã hơn một phần tư thế kỷ.

Thực trạng “thơ nhiều mà vẫn ít” trên đây, theo tôi là bởi thơ viết về biển, đảo gần đây vẫn mang tính phong trào, nặng về cổ động. Nhiều tác giả viết về biển, đảo chủ yếu theo cảm hứng sử thi; dựa vào các sự kiện lịch sử để lập tứ dàn ý khiến người đọc cảm thấy mòn cũ bởi bắt gặp quá nhiều những thi tứ, thi ảnh quen thuộc, như: Cọc Bạch Đằng, sóng Lục Đầu Giang, sóng Cửu Long Giang, cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ dẫn các con lên rừng-xuống bể, gò Đống Đa, ải Chi lăng, cửa Thần Phù, trận Rạch Gầm-Xoài Mút v.v.. Một số tác giả khác lại vẫn say sưa nói về những biểu tượng của Trường Sa như hoa muống biển, cây phong ba, cây bàng quả vuông… nhưng không có phát hiện gì mới, ý tứ gì mới. Cũng có những tác giả có ý thức lao động chữ nghĩa, đổi mới cách viết-cách nói về biển đảo, về Trường Sa, nhưng do thiếu trải nghiệm, thiếu thực tế, thiếu vốn sống về biển đảo và Trường Sa nên những nỗ lực sáng tạo của họ lại trở nên sáo, “diễn”, khó chấp nhận theo cảm thụ văn học thông thường.

Tất nhiên, không phải nhà văn muốn viết hay về biển đảo thì phải được ra tận nơi Trường Sa, Hoàng Sa, phải mục sở thị về biển đảo và ngược lại. Nhưng về cơ bản và nhất là trong bối cảnh thời sự hiện nay, việc được chứng kiến cuộc sống, lao động, sẵn sàng chiến đấu… của quân và dân biển, đảo; được trải nghiệm thực tế ở Trường Sa, Hoàng Sa, khu vực DK1… là điều kiện hết sức quan trọng. Bởi vậy theo tôi, cần phải thay đổi cách đi thực tế biển, đảo và Trường Sa như trong thời gian qua. Hội Nhà văn Việt Nam cần phối hợp với Bộ tư lệnh Hải quân, Bộ tư lệnh Cảnh sát biển và Cục Kiểm ngư để tổ chức những chuyến đi thực tế biển, đảo dành riêng cho các nhà văn, phù hợp với điều kiện biển đảo và đặc điểm tác nghiệp của nhà văn; không nên tổ chức cho nhà văn đi chung với các đoàn đại biểu đi thăm Trường Sa kiểu “gặp nhau lần nào cũng vội” như lâu nay. Nhà văn phải được nhìn gần, nhìn thật gần biển đảo thì sáng tác của họ mới gần với cuộc sống, tâm tư, tình cảm của bộ đội và ngư dân trên biển, đảo. Xin nêu một ví dụ: Trường Sa bây giờ đã được phủ sóng truyền hình và mạng viễn thông Viettel; Trường Sa bây giờ cây cối xanh tốt hơn, có điện mặt trời và điện gió chạy suốt ngày đêm, nhiều đảo có máy lọc nước biển thành nước ngọt tinh khiết… Cho nên những chuyện khát nước, chuyện khát thư, chuyện nắng gió biển khơi…, chuyện đi nhặt trứng chim, trứng vích; chuyện nuôi chó, nuôi lợn, trồng rau… của bộ đội Trường Sa bây giờ không giống như trong chùm thơ được giải và trong tiểu thuyết “Đảo chìm” của Trần Đăng Khoa mấy chục năm trước nữa. Tâm tư, nguyện vọng của bộ đội Trường Sa bây giờ như thế nào khi đời sống kinh tế-xã hội trong đất liền và điều kiện sinh hoạt của quân và dân trên đảo đã được cải thiện hơn trước? Trong đêm tối mênh mông, nhất là vào mùa biển động, những người lính trên các nhà giàn chơ vơ ở DK1 suy nghĩ gì? Cảm giác của họ trong những hoàn cảnh ấy ra sao? Nếu được lựa chọn thì họ sẽ lựa chọn điều gì? Vân vân và vân vân… Miêu tả, diễn đạt, lý giải những điều đó chỉ bằng tài năng bẩm sinh và trí tưởng tượng của nhà văn chắc chắn là không đủ!

Đồng thời, Hội Nhà văn Việt Nam và các hội văn nghệ địa phương cần phối hợp với ngành chức năng tổ chức các lớp tập huấn, nói chuyện thời sự, cấp phát tài liệu chuyên đề… để nâng cao nhận thức và kiến thức về biển, đảo cho các nhà văn. Biển, đảo Việt Nam có vùng chủ quyền hoàn toàn, vùng đặc quyền kinh tế, vùng quyền chủ quyền, vùng quyền tài phán…, nếu không phân biệt được những khái niệm đó thì đôi khi sáng tác của nhà văn sẽ có những nhầm lẫn đáng tiếc. Rồi nữa: Nếu không nắm vững chủ trương, đối sách của Đảng và Nhà nước, thì đôi khi tiếng nói của nhà văn lại thiếu thống nhất với các cuộc đàm phán ngoại giao. Nhà văn cũng cần nắm được nội dung Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982, Thỏa thuận DOC đã đạt được và Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông COC mà nước ta đang tích cực thúc đẩy ký kết. Đó là những văn bản quan trọng mà nhà văn không thể không quan tâm.

Cuối cùng, Hội Nhà văn Việt Nam nên định kỳ phát động những cuộc thi sáng tác về đề tài biển, đảo cho các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, ký và thơ. Đây phải là những cuộc thi văn chương uy tín, sang trọng, trị giá giải thưởng lớn, do Hội Nhà văn Việt Nam trực tiếp tổ chức. Nếu có đơn vị đồng tổ chức thì phải là những bộ, những ngành liên quan hữu trách, khả dĩ tạo điều kiện cho cuộc thi có thêm độ sâu và bề rộng. Các ngành kinh tế, các doanh nghiệp và nhà hảo tâm tài trợ kinh phí chỉ được gắn lô gô trên các ấn phẩm và tờ rơi, băng rôn… chứ không đứng tên tham gia Ban tổ chức. Tác phẩm dự thi chỉ được công bố trên Báo Văn nghệ, Tạp chí Thơ và Tạp chí Nhà văn và tác phẩm của Hội Nhà văn Việt Nam. Kết quả mỗi cuộc thi sẽ được chọn lọc xuất bản thành ấn phẩm tinh tuyển và phát hành phi thương mại để phổ biến rộng rãi trong toàn xã hội. Phải đầu tư lớn, công phu và chuyên nghiệp như vậy mới có thể góp phần sáng tạo nên những tác phẩm hay, có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao về biển, đảo ngày nay.

Lịch sử văn học Việt Nam từ xưa tới nay đã có không ít những áng thơ văn bất hủ về biển đảo, được ví như những cột mốc chủ quyền bằng văn chương. Thế hệ những người cầm bút ngày nay có quyền mơ ước và có trách nhiệm phải góp phần xây dựng thêm những cột mốc như thế. Với tôi, trên hành trình phấn đấu để đạt được điều đó, trước mắt chỉ mong được như một nhà thơ lớp trước từng mong: Một câu neo được trong lòng biển / Xin gửi khơi xa chút mặn mòi…

Nhà thơ MAI NAM THẮNG