Bước vào “Chiến dịch Quang Trung” theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, bộ đội thời bình như bước vào một “trận đánh mới”. Trận đánh ấy không có tiếng súng, nhưng đặt ra hai yêu cầu cốt tử phải vượt qua để giành thắng lợi: Thời gian và những cơn mưa bất chợt, nhằm bảo đảm tiến độ thi công và chất lượng công trình.
Nhìn hình ảnh bộ đội hành quân về thôn bản, khu phố để thực hiện chiến dịch, tôi chợt nhớ đến nhạc phẩm “Ta ra trận hôm nay” của nhạc sĩ Văn An. Ở đó hiện lên khí thế của những đoàn quân ra trận mang đậm cảm hứng sử thi và lãng mạn cách mạng: “Lời nước non như càng giục giã lòng ta, băng qua muôn suối ngàn sông rộn vui tiếng ca... Ta đi giữa những bàn tay san hố giữ cầu”. Chỉ khác rằng, trong thời bình hôm nay, người chiến sĩ đi vào “trận tuyến” của đời sống dân sinh.
Những người chiến sĩ vốn quen với thao trường, huấn luyện, với còi kẻng và giờ giấc chính quy nơi doanh trại, nay cầm cuốc, xẻng, dao xây để thi công từng hạng mục. Họ không ngại làm bạn với đất, cát, đá, xi măng, sắt thép để dựng nên những ngôi nhà mang cốt cách văn hóa Việt Nam, thấm đẫm tinh thần “thương người như thể thương thân”, với một thông điệp xuyên suốt là "không ai bị bỏ lại phía sau".
    |
 |
Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 351, Vùng 3 Hải quân xây nhà tặng nhân dân trong "Chiến dịch Quang Trung". Ảnh: VĂN MINH
|
Trong thời bình, có lẽ đây là chiến dịch có quy mô rất lớn. Năm 2024, trước những thiệt hại nặng nề do bão số 3 (Yagi) gây ra tại các tỉnh phía Bắc, nhiều đơn vị Quân đội đã tích cực tham gia tái thiết làng bản, xây dựng cầu Phong Châu mới để bảo đảm giao thông thông suốt. Tuy nhiên, xét về quy mô lực lượng và khối lượng công việc, “Chiến dịch Quang Trung” có phạm vi và yêu cầu cao hơn.
Trung tá Hồ Phú Thọ, Phó chủ nhiệm Hậu cần - Kỹ thuật Trung đoàn 351 kể rằng, từ ngày 5-12, đơn vị đã bắt tay vào thi công nhà cho bà Đỗ Thị Ba ở thôn Kim Đông, xã Tuy Phước Đông, tỉnh Gia Lai. Trước đó, cán bộ, chiến sĩ đã tiến hành phá dỡ công trình bị hư hỏng, tỉ mỉ đẽo vữa, bảo vệ từng viên gạch, giữ lại tối đa vật liệu của ngôi nhà cũ để tận dụng. Khi tiến độ đang được triển khai thì cấp trên thông báo bổ sung kinh phí, yêu cầu thi công thêm cột, dầm, gác xép nhỏ và nhà vệ sinh. Sự điều chỉnh này buộc anh Thọ phải tính toán lại toàn bộ các phần việc. Trong điều kiện mùa mưa, việc thi công gặp không ít khó khăn. Anh em phải che chắn để tường xây không bị ngấm nước. Có những ngày mưa kéo dài, bộ đội dựng bạt, đứng làm việc phía dưới trong điều kiện chật hẹp. Theo tính toán của anh Thọ, việc thay đổi thiết kế khiến tiến độ thi công kéo dài thêm khoảng 15 ngày.
Điều thuận lợi lớn nhất đối với anh Thọ và đồng đội là luôn nhận được sự đùm bọc, sẻ chia của nhân dân địa phương. Ngày đầu đặt chân đến thôn, khi còn loay hoay chưa tìm được chỗ ăn nghỉ phù hợp, ông Xuân, người dân trong thôn rất nhiệt tình mời bộ đội về ở cùng gia đình. Ông và người thân nhường hẳn căn phòng rộng hàng chục mét vuông để đội thi công hơn 10 người của Trung đoàn 351 nghỉ ngơi sau những giờ lao động vất vả.
    |
 |
| Cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn 25, Quân khu 7 thực hiện "Chiến dịch Quang Trung" Ảnh: VĂN MINH |
“Chiến dịch Quang Trung”, trong suy nghĩ của tôi, không chỉ là một kế hoạch hành chính. Đó là một cuộc “hành quân ngược”, từ doanh trại về làng xóm, từ kỷ luật Quân đội hòa vào nhịp sống nhân dân. Ranh giới giữa người lính và người dân nhanh chóng được xóa nhòa, bởi khi cùng đứng dưới mái nhà đang xây dở, cùng che mưa bằng những tấm bạt tạm, tất cả đều chung một nỗi lo và một niềm hy vọng.
Trong lịch sử và văn học, chúng ta đã quen với hình ảnh đoàn quân ra trận. Còn trong thời bình, người chiến sĩ hôm nay không chỉ đối diện với bom đạn mà còn đối diện với sự mong manh của đời sống dân sinh. Khi đi giúp dân, họ không mang theo súng đạn, mà mang theo cuốc xẻng, thước dây, bản vẽ. Nhưng bản chất của sự hy sinh thì không thay đổi, đó là đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết.
Ở nhiều vùng lũ, bộ đội ở lại làng nhiều ngày liền, ăn cơm cùng dân, ngủ tạm trong những căn nhà chưa kịp hoàn thiện để giúp nhân dân khắc phục hậu quả. Trong những ngày ấy, tôi nhớ hai câu chuyện nhỏ nhưng gợi nhiều suy nghĩ. Trung sĩ Trần Văn Nguyên, chiến sĩ Trung đoàn 38, Sư đoàn 2, Quân khu 5, khi dọn dẹp sau lũ đã phát hiện một túi chứa 4 triệu đồng và lập tức báo cáo chỉ huy để trả lại cho người dân. Hạ sĩ La Thanh Lượm, chiến sĩ Lữ đoàn 293, Binh chủng Công binh, cũng có hành động tương tự khi nhặt được túi da chứa 2 chỉ vàng trong lúc giúp dân sửa nhà. Những việc làm lặng lẽ ấy nói lên rất nhiều về phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong gian khó.
“Chiến dịch Quang Trung” đặt ra mốc thời gian rất gấp. Nhưng phía sau sự gấp gáp ấy là nỗi chờ mong của hàng trăm gia đình. Mỗi ngày chậm trễ là thêm một đêm người già, trẻ nhỏ phải trú nhờ, là thêm một lần ký ức về lũ lặp lại trong những giấc ngủ chập chờn. Vì thế, người lính làm việc không chỉ bằng sức lực mà bằng cả sự thấu cảm. Trong cảm nhận của tôi, người lính trong “Chiến dịch Quang Trung” mang vẻ đẹp của sự bền bỉ và chắc chắn, giống như những cây cột nhà, lặng lẽ chịu lực, nâng đỡ và giữ cho mái ấm không đổ sập thêm một lần nào nữa.
Rồi đây, khi chiến dịch kết thúc, các chiến sĩ sẽ rời đi, những con đường làng trở lại nhịp sống quen thuộc. Nhưng dấu chân bộ đội vẫn in đậm trong ký ức của nhân dân. Ở mỗi căn nhà mới sẽ có những câu chuyện được kể lại về những ngày bộ đội đến, về cách họ làm việc, về những bữa cơm vội nhưng đượm nghĩa tình quân dân.
Trở lại đơn vị, bộ đội không mang theo gì ngoài chiếc ba lô quen thuộc và đôi giày còn vương bùn đất. Nhưng ở lại, trong những căn nhà vừa kịp khô vẫn vương mùi vôi vữa, là một thứ bền hơn cả bê tông cốt thép, đó là tình cảm quân dân. Nhân dân hiểu rằng, Bộ đội Cụ Hồ luôn có mặt khi nhân dân đối diện với hiểm nguy, khó khăn, vất vả.
“Chiến dịch Quang Trung” rồi sẽ được tổng kết bằng những con số cụ thể về số căn nhà, ngày công, đơn vị tham gia. Nhưng trong ký ức của người dân vùng lũ, chiến dịch ấy được ghi nhớ bằng một thước đo khác, đó là bộ đội đã đến đúng lúc. Ở đó, hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ vững vàng như chính những ngôi nhà mới dựng lên giữa mùa mưa cuối năm, lặng lẽ, bền bỉ và ấm áp. Một mái nhà được xây lại cũng là thêm một lần niềm tin của nhân dân vào Bộ đội Cụ Hồ, vào chế độ và sự lãnh đạo của Đảng được bồi đắp, lan tỏa bền sâu trong lòng dân.
Đại tá NGUYỄN HỮU HÙNG, Chính ủy Trung đoàn 351, Vùng 3 Hải quân