(tiếp theo và hết)
Thứ ba, hành động chiến đấu một cách linh hoạt và sáng tạo.
Ba kỹ năng quan trọng nhất giúp quân và dân ta chiến thắng máy bay B-52 là:
1. Nhận diện B-52 trong nhiễu và phá vỡ sự liên kết trong đội hình bay của địch
Điều khó khăn nhất cho ta khi đối mặt với máy bay B-52 là màn nhiễu dày đặc. Không quân Mỹ đã tận dụng mọi cách để gây nhiễu, khiến ra-đa đối phương trở nên “mù lòa”.
Đối mặt với kẻ thù có nhiều thủ đoạn xảo quyệt, bộ đội Việt Nam, mà chủ lực là các trắc thủ ra-đa, đã không ngừng tìm tòi các biện pháp khắc phục. Một phong trào “vạch nhiễu tìm thù” đã ra đời.
Bộ đội ta chủ trương “đưa máy lên cao, vươn xa cánh sóng”, đã tiến sâu, ở lâu, trụ vững để “tìm thù trong nhiễu”. Các đơn vị ra-đa đã vào sâu trong chiến trường phía Nam, lên đỉnh Trường Sơn, tạo thành một trường ra-đa khép kín, kết hợp giữa ra-đa truyền thống với thiết bị quang điện tử, quan sát đêm, ngày và đo xa, huấn luyện cho các trắc thủ thành thạo những biện pháp kỹ thuật, đồng thời không ngừng nghiên cứu các thủ đoạn cũng như các trang, thiết bị mới của địch để đối phó. Ta đã nghiên cứu và phát hiện những sơ hở của địch để khai thác triệt để. Trong khi gây nhiễu chủ động, địch chỉ tập trung trấn áp các tần số sóng ra-đa của tên lửa và không quân, mà bỏ qua không trấn áp các ra-đa điều khiển pháo cao xạ của ta. Vì thế, ta đã tận dụng loại ra-đa này, thiết kế thành bộ khí tài KX-ghép nối với đài điều khiển, cung cấp số liệu để khẳng định mục tiêu B-52, nhất là phân biệt B-52 thật và B-52 giả. Tháng 1-1972, bộ khí tài này đưa ra ứng dụng, đã giúp đài điều khiển tên lửa phát hiện máy bay B-52.
    |
 |
Tự vệ thành phố Hà Nội ngày đêm nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu trong Chiến dịch "Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không". Ảnh tư liệu |
Khi Mỹ tiến hành Chiến dịch Linebacker 1 từ tháng 4-1972. Để chống lại các thủ đoạn gây nhiễu của địch, mạng ra-đa trên toàn miền Bắc đã được bố trí theo cụm, kết hợp máy cũ với máy mới, kết hợp giữa các đài ra-đa với trạm quan sát bằng mắt thường, tạo thành một trường ra-đa khép kín, có khả năng chống nhiễu cao, đủ sức phát hiện các loại máy bay bay cao, bay thấp, bay ở tầng trung và tầng cao, tạo thành thế trận vững chắc, liên hoàn và có chiều sâu.
Đối với tên lửa, trước khi bước vào trận "Điện Biên Phủ trên không", ta đã bố trí đội hình thành ba vòng: Vòng ngoài, vòng giữa vào vòng trong, sẵn sàng bọc lót cho nhau. Sau nhiều trận đánh thắng bằng phương pháp “bắn ba điểm”, bộ đội ta đã thấy rõ bàn tay khéo léo và trí thông minh của đội ngũ trắc thủ. Bên cạnh đó, các đơn vị phát hiện tín hiệu B-52 còn đánh bằng phương pháp hiệu quả nhất là phương pháp “vượt nửa góc”.
Có thể nói, cho đến trước chiến dịch 12 ngày đêm, binh chủng ra-đa cũng như binh chủng phòng không còn liên tục rút kinh nghiệm và cập nhật những thay đổi trong thủ đoạn của địch. Một trong những thành công đó là đã vô hiệu hóa các loại nhiễu của địch. Trong màn nhiễu dày đặc, các chiến sĩ bằng tinh thần và trí tuệ của mình, đã “vạch nhiễu tìm thù", “tìm thù trong nhiễu”, nhận rõ mặt kẻ thù để tiêu diệt và đi tới chiến thắng cuối cùng, với 34 máy bay B-52 bị bắn rơi.
Song song với “vạch nhiễu tìm thù” thì một vấn đề khác là phải tách cho được loại máy bay B-52 ra khỏi nền nhiễu, cũng như ra khỏi khối liên kết với các loại máy bay chiến thuật làm nhiệm vụ hộ tống, gây nhiễu. Sức mạnh của B-52 chỉ có thể phát huy tác dụng khi duy trì được khối liên kết chặt chẽ với các loại máy bay khác trong đội hình chiến đấu. Đây là chỗ yếu chí mạng của địch.
Vấn đề đặt ra là phải chuyển hóa lực lượng, tập trung mọi nỗ lực, vận dụng cách đánh sáng tạo, linh hoạt, liên tục phá vỡ sự liên kết, làm bộc lộ lực lượng, tách B-52 ra để tiêu diệt.
Cùng với việc phá vỡ sự liên kết của địch, tạo điều kiện thuận lợi để đánh trúng B-52, thì việc giữ gìn lực lượng ta cũng có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì vậy, ngay sau khi các sân bay của ta bị đánh phá, quân và dân ta đã kịp thời khôi phục lại, tạo điều kiện để không quân ta xuất kích, chiến đấu cùng với các lực lượng vũ trang khác.
Sau những đêm đầu bị giáng trả quyết liệt, nhiều B-52 bị bắn rơi, địch phát hiện ra đối thủ nguy hiểm nhất chính là tên lửa, nên đã tìm mọi cách nhằm vào đấy mà đánh phá. Do đó, việc bảo vệ an toàn cho tên lửa là rất bức thiết. Ta đã tập trung không quân, pháo cao xạ tiêu diệt máy bay cường kích để bảo vệ tên lửa.
2. Vô hiệu hóa “lông nhím” Sơ-rai (Shrike)
Ra-đa là con mắt của bệ phóng tên lửa phòng không. Biết rõ điều đó, không quân Mỹ đã chế tạo ra loại tên lửa để chuyên đánh các đài ra-đa. Đó là tên lửa không đối đất Sơ-rai. Các máy bay chiến thuật F4 và F105 đi hộ tống B-52, đã mang loại tên lửa này để chế áp trận địa tên lửa của ta.
Sơ-rai có đầu tự dẫn, hoạt động theo nguyên tắc “tự động điều khiển theo bức sóng điện từ”. Nói một cách đơn giản, khi địch phát hiện được cánh sóng ra-đa của ta, các máy bay chiến thuật liền phóng tên lửa Sơ-rai vào cánh sóng đó. Quả tên lửa cứ theo trục cánh sóng ra-đa mà lao xuống và gây nổ, hoàn toàn chính xác. Khi cách ra-đa vài chục mét, tên lửa phát nổ lần thứ nhất, văng ra hàng vạn viên bi vuông để phá hủy ra-đa. Phần còn lại lao xuống đất và nổ lần thứ hai để phá hủy nốt mục tiêu. Loại tên lửa này đã từng gây ra một số thiệt hại đáng kể cho bộ đội ra-đa.
Sau khi bị một số thiệt hại, các chiến sĩ ra-đa thông minh của ta đã dần dần tìm ra được những nhược điểm của loại vũ khí này. Cứ mỗi khi phát hiện địch phóng tên lửa Sơ-rai, các chiến sĩ ra-đa tức thì tắt máy đột ngột và xoay cần ăng-ten đi hướng khác. Bị mất nguồn điều khiển, tên lửa Sơ-rai cứ thế lao theo quán tính và bay chệch ra khỏi trận địa.
Nhờ kinh nghiệm đó mà trong những ngày cuối năm 1972, mặc dù không quân Mỹ đã phóng rất nhiều tên lửa Sơ-rai nhưng ra-đa của ta vẫn trụ vững và phát sóng bắt B-52 để dẫn đường cho tên lửa tiêu diệt.
3. Phương pháp điều khiển tên lửa trong nhiễu
Các nhà khoa học quân sự Mỹ vô cùng lắm mưu, nhiều kế xảo quyệt. Trước cuộc tiến công Linebacker 2, không quân Mỹ đưa ra một thủ đoạn mới, là dùng các máy bay chiến thuật F4, giả làm B-52 để đánh lừa ta, và họ cũng đã thu được những kết quả trong cuộc tập kích vào Hà Nội và Hải Phòng ngày 16-4-1972.
Để đối phó lại, bộ đội tên lửa của ta cũng đã tìm ra những phương pháp mới. Mỗi khi nghi ngờ là máy bay chiến thuật làm giả B-52, các chiến sĩ ta đã làm động tác “phóng giả”, nghĩa là chỉ phát sóng ra-đa mà không phóng đạn. Thấy vậy, các máy bay chiến thuật liền cơ động loạn xạ để tránh đòn. Như vậy, lập tức các mặt nạ của chúng đã lộ nguyên hình máy bay B-52 thật. Lúc ấy, các chiến sĩ ta mới “phóng thật”, đưa những quả tên lửa tới mục tiêu.
Nếu mục tiêu không hiển thị rõ nét, để có thể xác định đúng và điều chỉnh tên lửa chính xác, các chiến sĩ ta đã linh hoạt đề ra biện pháp bắn theo xác suất: Bắn một loạt đạn vào đám nhiễu, theo cự ly giãn cách nhất định, sẽ có thể tiêu diệt được mục tiêu với xác suất khá cao. Khi B-52 bay thẳng vào, đài phát cường độ nhiễu sẽ tăng lên và tín hiệu mục tiêu sẽ tăng mạnh hơn và mục tiêu cũng sẽ hiển thị rõ nét hơn. Đây là thời gian có thể bắn được chính xác hơn. Chỉ cần từ một đến hai quả tên lửa là B-52 có thể rơi ngay tại chỗ.
Cũng phải nói thêm, trong môi trường nhiễu nghiêm trọng như vậy, tên lửa phòng không của ta không thể bắn bình thường được mà phải dùng các biện pháp sáng tạo. Hai trong số nhiều biện pháp đó đã mang lại thắng lợi cho trận “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” là phương pháp “bắn ba điểm” và phương pháp “bắn vượt nửa góc”. Ba chiếc B-52 bị bắn rơi đầu tiên trong đêm 18-12-1972 đều có sự đóng góp của hai phương pháp này.
Cho đến hiện nay, phía ta cũng chưa công bố cụ thể nội dung các phương pháp đó. Nhưng đại thể có thể công khai là, “bắn ba điểm” là quả đạn chỉ trúng đích khi ba điểm (ra-đa, mục tiêu và đài điều khiển tên lửa) giao hội với nhau. Còn “bắn vượt nửa góc”, về thực chất là hình thức bắn đón, tính toán sao cho thời gian quả tên lửa bay lên phải hoàn toàn trùng khớp với thời gian chiếc B-52 bay tới để chịu đòn.
Ngoài ra, ta còn dùng phương pháp đánh vào đội hình bay xơ cứng của B-52. Giới quân sự Mỹ cũng xác nhận, đây là một trong những nhược điểm “chết người” của B-52.
Trong một bài viết đăng trên Tạp chí US Air Force, phi công Mỹ Drenkowoki đã lý giải nguyên nhân B-52 bị tên lửa SAM-2 bắn hạ. Theo lập luận của tác giả, B-52 bị bắn rơi quá nhiều trong Chiến dịch Linebacker 2, vì Mỹ đã quá cứng nhắc khi bắt những phi công phải tuân thủ một lộ trình di chuyển cố định cho các tốp B-52 khi đi đánh phá. Họ yêu cầu đội hình ba chiếc, bay theo hình tam giác: Một chiếc đi đầu, hai chiếc đi sau và giữ khoảng cách 2,4km so với chiếc đi đầu. Khi cắt hết bom, các máy bay sẽ ngoặt khỏi mục tiêu để bay về căn cứ. Vị trí ngoặt của chiếc đi đầu cũng sẽ là vị trí của hai chiếc tiếp theo, và cũng là của toàn bộ các tốp B-52.
Drenkowoki viết: “Những người điều khiển tên lửa SAM-2 đã khôn ngoan quan sát ngay vị trí chiếc B-52 đi đầu ngoặt khỏi mục tiêu. Họ phóng lên một quả đạn để tên lửa bay theo đường đạn khoảng 45 giây, tới gần chỗ B-52 phải ngoặt. Họ dùng 5 đến 10 giây để điều khiển quả tên lửa “khóa” vào điểm ngoặt, sao cho khi quả tên lửa tới đó thì vừa đúng lúc chiếc B-52 tiếp theo cũng bay tới. Thật ngon xơi”.
Trong khi đó, phía Mỹ giải thích, trong cuộc hành binh này, mật độ máy bay B-52 và các máy bay chiến thuật đi theo hộ tống quá dày. Nếu cho phép các phi công cơ động để tránh tên lửa thì sẽ khiến các máy bay dễ bị đâm vào nhau. Mặt khác, với thân xác cồng kềnh, B-52 sẽ dễ dàng bị lọt và ra khỏi “hành lang nhiễu”, nếu như nó cơ động trên không.
Nhờ có phương pháp điều khiển tên lửa trong nhiễu một cách linh hoạt và sáng tạo, bộ đội phòng không của ta đã thu được nhiều kết quả khả quan. Chỉ sau ba đêm chiến đấu, đến rạng sáng ngày thứ tư, 21-12-1972, đã có 12 B-52 bị bắn rơi. Thất bại đó đã làm cho hãng thông tấn AP (Mỹ) bi quan: “Nếu cứ theo đà này thì máy bay B-52 sẽ bị tuyệt chủng”.
Trước đó, tháng 5-1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các cán bộ tham mưu tác chiến của Quân chủng Phòng không-Không quân đã đặt câu hỏi: “Tỷ lệ B-52 bị bắn rơi ở mức độ nào thì Nhà Trắng rung chuyển? Mức độ nào thì Mỹ không chịu nổi, phải thua?”. Câu trả lời là: "Tỷ lệ Nhà Trắng rung chuyển là: 6-7%. Tỷ lệ buộc Mỹ phải thua cuộc là: Trên 10%".
Bộ đội ta thực hiện vượt mức chỉ tiêu. Trong 12 ngày đêm, tỷ lệ B-52 bị bắn rơi là 17,6% (34/147 chiếc). Vì vậy mà đến sáng 30-12-1972, Tổng thống R.Nixon buộc phải tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc, đề nghị Việt Nam trở lại bàn đàm phán Paris.
“Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” tháng 12-1972 không phải là một cuộc đụng độ ngẫu nhiên. Đối với Mỹ, đó là thủ đoạn cuối cùng, trước khi cam tâm chịu thất bại. Đối với ta, đó là trận chiến đã được dự đoán và chuẩn bị trong 5 năm trời. Ta thắng Mỹ chính vì ta đã từng giờ, từng phút tích lũy kinh nghiệm và liên tục sáng tạo các chiến thuật cùng với quá trình cải tiến kỹ thuật để chiến thắng các thủ đoạn tinh vi của đối phương.
DƯƠNG XUÂN ĐỐNG