Chọn cuộc đời sóng gió, hy sinh
Chúng tôi sinh ra sau Hà Huy Tập gần một thế kỷ. Thời gian cùng những biến động của lịch sử khiến những câu chuyện chúng tôi biết về anh chỉ tìm được qua một số sách, báo ít ỏi. Nhưng chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ giúp chúng tôi cảm phục về một tấm gương nhiệt thành cống hiến cho cách mạng, hết mình hy sinh cho Đảng, cho dân tộc.
Lẽ thường, sinh ra trong gia đình Nho học nghèo, tốt nghiệp Trường Quốc học Huế với tấm bằng thành chung, Hà Huy Tập hoàn toàn có thể chọn cho mình cuộc sống đủ đầy, danh vọng của một thầy giáo mà bình bình, đạm đạm an yên qua ngày. Sinh ra trên mảnh đất Nghệ Tĩnh giàu truyền thống yêu nước, cũng là quê hương của hai đồng chí Tổng Bí thư Trần Phú và Lê Hồng Phong; chứng kiến cảnh đói khổ của người dân, những căm hờn trước bất công của chế độ thực dân, phong kiến, sự vùng lên của quần chúng, những tấm gương đấu tranh anh dũng... đã hun đúc chí căm hờn, ý thức phản kháng trong chàng thanh niên Hà Huy Tập. Và rồi, anh đã lựa chọn sống cuộc đời đầy sóng gió, hy sinh nhưng cũng thật vẻ vang, tự hào.
Anh từng viết trong bản khai lý lịch của mình: “Chắc chắn năm 1923, tôi chưa có tư tưởng cộng sản nhưng rõ ràng là đã có tư tưởng chống bảo hoàng và chống đế quốc, bởi tôi căm thù chủ nghĩa thực dân và chế độ phong kiến. Tôi tuyên truyền chống chế độ chuyên chế và chế độ thực dân Pháp trong số những học sinh và những người mà tôi biết...”. Hà Huy Tập đã nhiệt tình lao vào hoạt động bắt đầu như thế. Sau này, khi được tiếp xúc với sách báo tiến bộ từ Pháp, Trung Quốc, rồi tham gia Hội Phục Việt, anh càng hăng say hoạt động và ngày càng tỏ ra là người có khả năng tổ chức và tuyên truyền, có sức lôi cuốn với quần chúng. Từ những thái độ, hành động chống đối sự bất công trong trường, qua các lớp học, anh còn tuyên truyền cho học sinh, giáo giới, quần chúng truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh. Bởi những hoạt động gây nguy hại cho chính quyền thực dân, phong kiến, như “cho học trò đội mũ ca lô đỏ trong giờ tập thể dục” khiến đốc học Vinh và thực dân Pháp tức giận, lo sợ “như thế là để làm tiền thân cho các đội học sinh cộng sản”... nên Hà Huy Tập liên tục bị chuyển trường, sa thải. Thế nhưng dù ở đâu, dù kẻ địch đàn áp như thế nào cũng không thể dập đi ngọn lửa cách mạng cháy rực trong tim của người cộng sản.
“Sống cho đi”
Ngọn lửa cách mạng trong Hà Huy Tập ngày càng được thổi bùng, rực sáng. Với trí tuệ và nhiệt huyết cách mạng, lại được trải qua thời gian học tập, rèn luyện ở nước ngoài, Hà Huy Tập thực sự trở thành người cộng sản có tài năng và phẩm chất ưu tú, như nhận định của đại diện Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản gửi cho đồng chí Lê Hồng Phong ngày 10-2-1932 khi giới thiệu Hà Huy Tập về tham gia Ban chỉ huy ở ngoài: Đồng chí này rất chắc chắn trong đường lối về phương diện chính trị, đồng chí ấy đã được huấn luyện tốt về lý thuyết và có kinh nghiệm công tác quần chúng. Do đó, đồng chí ấy có thể đem lại cho đồng chí một sự trợ giúp lớn không chỉ với công tác Đông Dương, mà cả đối với các công tác chung: Đào tạo cán bộ, giám đốc các trường Đảng, viết bài cho báo chí...
Quả thực, khi nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là giai đoạn đầu mới thành lập, những đóng góp lớn của đồng chí Hà Huy Tập cho cách mạng sau sự khủng bố ác liệt của địch giai đoạn 1931-1934 được thể hiện thấy rõ. Đặc biệt là hoạt động của Ban chỉ huy ở ngoài trong việc tái lập các cơ quan, khôi phục hệ thống chỉ đạo của Đảng; việc chuẩn bị, tổ chức, điều hành Đại hội lần thứ nhất của Đảng năm 1935 và triển khai nghị quyết đại hội; tăng cường các tổ chức quần chúng của Đảng... mà Hà Huy Tập giữ vai trò quan trọng trong đó đã góp phần đưa phong trào cách mạng cả nước phát triển.
Càng đi sâu tìm hiểu về những đóng góp của đồng chí Hà Huy Tập với cách mạng Việt Nam, chúng tôi rất tự nhiên, lại suy tưởng đến một cuộc đời “sống cho đi”. Từ một thanh niên yêu nước, Hà Huy Tập đến với cách mạng và trở thành Tổng Bí thư của Đảng trong giai đoạn đầy khó khăn, khốc liệt, tổ chức đảng trong nước hầu như tan vỡ trước chính sách "khủng bố trắng" của thực dân. Anh đã chịu cảnh mồ côi cha từ nhỏ, sống khổ cực, giống như bao gia đình, làng xóm trước những áp bức bất công của thực dân phong kiến. Có ích kỷ với gia đình không khi anh không chọn con đường êm ả mà để lại vợ con, vui vẻ lao vào hoạt động cách mạng, sẵn sàng đối mặt với cái chết? Khi anh cống hiến, hy sinh cả cuộc đời cho lý tưởng của mình?...
Nhưng, lý tưởng của Hà Huy Tập không gì khác chính là đấu tranh vì dân tộc, nhân dân, những mong mang lại những điều tốt đẹp cho gia đình, người thân yêu; còn bản thân lại chưa giây phút nào anh thực sống cho riêng mình. Ngay cả lúc bị địch bắt, anh vẫn lo nghĩ rồi viết giấy xác nhận cắt đứt quan hệ vợ chồng với vợ để tránh ảnh hưởng đến vợ con. Khi biết sắp phải chết, anh gửi gắm ý chí, nhắn nhủ niềm tin yêu với những người ở lại bằng thái độ bình thản, lạc quan, những mong bạn bè, người thân không phải đau buồn: “Cường nhận được thơ này thì viết thơ khuyên mẹ chớ khóc lóc, buồn rầu. Nếu tôi phải bị chết, thì ở nhà không nên thờ cúng, điếu phúng; không cần tìm người lập tự; gia đình và bạn hữu chớ xem tôi như là người chết mà phải buồn; trái lại nên xem tôi như là người còn sống, nhưng đi vắng một thời gian vô hạn... mà thôi”. Vậy là đến cả khi từ giã cõi đời, anh vẫn chỉ lo nghĩ cho Đảng, cho đồng chí, người thân mà thôi!
Xung kích trên mặt trận lý luận chính trị
Tấm gương cống hiến, hy sinh anh dũng của Hà Huy Tập vẫn sống mãi, soi sáng đến thế hệ chúng tôi hôm nay, giống như lời nhắn nhủ “nên xem tôi như là người còn sống” của đồng chí. Nó truyền đến, thôi thúc chúng tôi phải tìm hiểu, học tập và phát huy những giá trị mà thế hệ tiền bối của Đảng để lại.
Khi đọc lại những bài viết của Hà Huy Tập, điểm nổi bật chúng tôi nhận rõ và khâm phục ở đồng chí là tài năng của một nhà lý luận chính trị, luôn xung kích trên mặt trận đấu tranh bảo vệ đường lối của Đảng. Mặc dù theo các nhà nghiên cứu, còn rất nhiều tác phẩm của Hà Huy Tập không sưu tầm, xác định đầy đủ được. Tuy nhiên, qua những bài báo, sách của đồng chí còn lại đến nay, nội dung chủ yếu là ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp, vận động thành lập Mặt trận nhân dân Đông Dương, chống phản động thuộc địa và chủ nghĩa phát xít, chống lại các khuynh hướng tả và hữu khuynh trong đường lối chính trị và tổ chức... Những nội dung trong các bài viết của đồng chí như thể hiện tiếng nói của Đảng trong cuộc đấu tranh đương thời. Chẳng hạn, qua “Tờrốtxky (Trotsky-NV) và phản cách mạng”, “Ai chia rẽ nhóm La Lutte”... Hà Huy Tập đã vạch trần bộ mặt giả hiệu cách mạng, đầu cơ cách mạng của bọn Tờ-rốt-xkít (Trotskyist) và kiên quyết chống lại chúng-kẻ thù nguy hiểm nhất về lý luận và chính trị của Đảng Cộng sản, của cuộc vận động dân chủ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và phản động thuộc địa ở Đông Dương.
Hà Huy Tập đã có những bài viết từ khá sớm và thể hiện tầm tư duy, có cái nhìn xa các vấn đề ở tương lai của một lãnh tụ của Đảng. Đồng chí mong muốn “... hy vọng có thể phục vụ cho các đảng viên trẻ và công nhân cách mạng để họ có thể hiểu Đảng chúng ta, tránh những sai lầm và rút ra những kinh nghiệm bổ ích...” khi viết “Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương” nhân 3 năm thành lập Đảng. Và với các tác phẩm trước đó như: “Hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương” nhân kỷ niệm 2 năm thành lập Đảng; hay “Lịch sử Tân Việt Cách mạng Đảng”, viết ngay lúc mới vào học Trường Đại học Phương Đông... Hà Huy Tập đã quan tâm đi sâu nghiên cứu lịch sử Đảng, tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm, trở thành một trong những người đầu tiên đặt nền móng cho ngành lịch sử Đảng sau này, như các nhà nghiên cứu đã nhận định.
Với chúng tôi, trong lĩnh vực báo chí, Hà Huy Tập chính là bậc thầy. Hà Huy Tập là sáng lập viên, tổng biên tập của nhiều tờ báo, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng như: Tạp chí Bônsơvích tiếng Pháp và tiếng Việt, Báo Dân Chúng. Anh đã sớm nhận ra vị trí quan trọng của hoạt động báo chí, xuất bản và xem đó là vũ khí quan trọng, sắc bén để tuyên truyền, cổ động, tổ chức đảng viên và quần chúng. Đóng góp vào cuộc đấu tranh bảo vệ lý luận, tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng trước các khuynh hướng sai lầm, phản động, anh đã thể hiện mình là một cây bút đa tài, sắc sảo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ". Trên mặt trận báo chí đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác quan điểm sai trái, thù địch hôm nay, dường như còn thiếu vắng những cây bút trẻ. Không ít nhà báo vẫn cho rằng, đó là lĩnh vực của những người “có tuổi”, hoặc bản thân không đủ kiến thức, không dám tham gia. Những đóng góp, tấm gương của đồng chí Hà Huy Tập khiến chúng tôi thêm lần nữa tự soi lại mình để không ngừng trau dồi kiến thức, nêu cao trách nhiệm của nhà báo, đảng viên trẻ trên mặt trận tư tưởng, chính trị.
THU HÒA - HOÀNG VIỆT