Thế hệ nhà báo nữ cách mạng đầu tiên 

Trong hồi ký “Tình yêu và lý tưởng” của nhà báo Thanh Thủy, cựu phóng viên Báo Tiếng gọi phụ nữ-tờ báo về phái nữ đầu tiên ra đời năm 1945 sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nhà nước ta mới thành lập-kể rằng, ngay từ lúc đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc cần thiết phải có một tờ báo nữ để tuyên truyền, tập hợp phụ nữ vào Đoàn Phụ nữ Cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh. Người trực tiếp dành thời gian gặp các cán bộ của báo lúc đó là bà Như Quỳnh, Việt Lê, Huỳnh Bội Hoàn (tức chị Tâm Kính), Hồng Trang và Thanh Thủy. Người dặn dò: Viết báo phụ nữ, không thể cứ ngồi trong bốn bức tường rồi nghĩ ra mà viết điều này điều nọ mà phải viết về những chuyện, những việc cụ thể, thiết thực trong đời sống hằng ngày của phụ nữ, của trẻ em.

Thực hiện lời dạy của Người, thế hệ nhà báo nữ cách mạng đầu tiên ấy đã có mặt ở chiến khu khi đất nước bước vào cuộc kháng chiến 9 năm gian khổ, trường kỳ. 3 năm sau, giữa núi rừng Việt Bắc, chính những cây bút nữ đã góp sức làm nên tờ báo Phụ nữ Việt Nam, xuất bản số đầu tiên năm 1948, rồi sau đó lại ra thêm ấn phẩm Tạp chí Phụ nữ Việt Nam năm 1952. Sự xuất hiện của các nữ nhà báo đã khẳng định sứ mệnh lịch sử của họ đối với đất nước, đối với báo chí cách mạng ở nước ta. Cũng như các đồng nghiệp nam giới, họ viết bài tuyên truyền, phản ánh cuộc sống, tinh thần kháng chiến; từ đưa tin chiến trường đến phỏng vấn bộ đội, nhân dân; biên tập, trình bày, thiết kế bìa, làm phát thanh viên, thậm chí dùng sức lực dẻo dai và bền bỉ của đôi vai, đôi tay, đôi chân bé nhỏ của mình cùng các đồng nghiệp hoàn thành nhiệm vụ in báo, mang vác, gánh gồng phát hành báo đến mọi thôn làng, ngõ xóm...

Những hình ảnh tư liệu để lại của Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng năm 1949 tại Bảo tàng Báo chí Việt Nam cho thấy, trong số 42 học viên của khóa học đầu tiên và duy nhất của trường có 3 học viên nữ. Cả 3 đều gắn bó với nghề báo: Bà Mai Cương từ Báo Lao động trưởng thành và có thời gian đảm nhận vị trí Thứ trưởng Bộ Tài chính, bà Lý Thị Trung-người đã gây dựng Báo Phụ nữ Thủ đô thời đổi mới. Còn bà Phương Nguyên, phóng viên Báo Phụ nữ Việt Nam, thật tiếc là khi vừa học xong ít lâu thì đã ở mãi tuổi thanh xuân nơi chiến khu Việt Bắc.

leftcenterrightdel

Nhà báo liệt sĩ Phạm Thị Ngọc Huệ. 

leftcenterrightdel
Nhà báo liệt sĩ Nguyễn Thị Thanh Xuân. 

Ra trận vì không thể ngồi yên

Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cả đất nước trong đội hình đánh giặc, nhà báo cũng ra chiến trường, đã có hẳn một bộ phận nữ nhà báo-chiến sĩ tham gia tác nghiệp tại các chiến trường ác liệt. Nhiều người để lại tuổi xuân của mình cùng với ngòi bút đang sung sức tại mặt trận. Các cơ quan báo chí lớn có những bài báo, hình ảnh người phụ nữ gắn liền với tinh thần “3 đảm đang”, vừa sản xuất, vừa nuôi con, vừa cầm súng đánh giặc. Không ít bài báo đó được viết từ chiến trường gửi về, do chính các nhà báo nữ là tác giả.

Có thể nói, hình tượng người phụ nữ cách mạng trong giai đoạn này dẫu được tập trung khắc họa gắn với hình ảnh những người mẹ, người vợ kiên cường, những nữ chiến sĩ tóc dài trên nhiều mặt trận, nhưng vẫn chưa có dịp khắc họa sâu sắc những gương mặt nhà báo xả thân trong các cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc với một tình yêu và lý tưởng hòa quyện, son sắt.

Nhiều nữ nhà báo đã gửi lại con thơ cho người thân, tình nguyện vào Nam chiến đấu như chị Dương Thị Xuân Quý, phóng viên Báo Phụ nữ Việt Nam, người đã “không thể ngồi yên khi biết ngoài kia đồng bào, đồng chí đang đổ máu” và đã xung phong lên đường vào Nam để được “viết bằng đôi chân dấn thân, bằng mắt thấy, tai nghe chứ không chỉ ngồi trong phòng biên tập”. Và chị đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường Duy Xuyên (Quảng Nam) khi mới 28 tuổi.

leftcenterrightdel
Nhà báo liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý. Ảnh tư liệu 

Là “bông huệ trắng của núi rừng Trường Sơn”-nữ phóng viên của Báo Trường Sơn Phạm Thị Ngọc Huệ đã hy sinh anh dũng trong sự xót thương của đồng đội. Là nữ phóng viên Báo Hải Phòng, nhà báo Thụy Nga (tức Bảy Vân, sau này là vợ của Tổng Bí thư Lê Duẩn), người đã tình nguyện lên đường vượt biển trên một con tàu không số để được vào Nam chiến đấu cho quê hương. Và rất nhiều nữ nhà báo trẻ, khi vừa tốt nghiệp Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội) hoặc đang công tác ở các tòa soạn, không sợ gian khổ, hy sinh, xung phong ra chiến trường ác liệt, như: Lệ Thu (Đài Tiếng nói Việt Nam), Trịnh Kim Anh (Báo Nhân Dân), Trần Thị Thắng (Báo Văn nghệ), Hà Phương (Báo Phụ nữ TP Hồ Chí Minh)...

Tại chiến trường ác liệt phía Nam, nữ họa sĩ Báo Phụ nữ giải phóng Đặng Ái Việt từng vào chiến khu từ năm 17 tuổi-người mà sau hòa bình đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động với hơn 10 năm trời đi khắp mọi miền đất nước ký họa chân dung hàng nghìn Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Bà làm báo kiêm thợ mộc, vẽ và khắc những bản gỗ phục vụ in báo rồi kiêm luôn cả nhiệm vụ phóng viên viết bài cho những mục ngắn của báo, đồng thời cũng là du kích cầm súng khi địch càn. Bà kể lại: Ngày đó làm báo trong rừng khó khăn và vất vả không kể xiết, đa phần phải ngủ ở rừng, nhiều đêm phải đạp xe hơn 30 cây số đến chỗ nhà in để kịp in báo cho hôm sau báo ra”.

Cũng vào chiến khu làm báo khi tuổi còn rất trẻ, nữ nhà báo Minh Hiền, phóng viên Báo Giải phóng, hằng ngày cặm cụi học nghề, làm nghề, biên tập và viết bài cho báo. Ngày giải phóng miền Nam (30-4-1975), bà là nữ phóng viên đeo khăn rằn từ căn cứ Tây Ninh về, kịp thời có mặt để lấy tin, viết bài cho Báo Giải phóng số đầu tiên ra sau ngày thống nhất, cũng là số báo đầu tiên của Báo Sài Gòn giải phóng (ngày 5-5-1975)... 

leftcenterrightdel
Nhà báo Lệ Thu (bên trái) và Kim Anh cùng các đồng nghiệp ở chiến trường Khu 5. Ảnh tư liệu

Nhà báo Trịnh Kim Anh kể rằng, bà thật may mắn khi được nhà báo, nhà thơ Lệ Thu như người chị, người thầy dìu dắt trong những ngày đầu vào chiến trường Khu 5. Mới đây, bà đã trao tặng Bảo tàng Báo chí Việt Nam một bức thư tay của bà Lệ Thu viết cho mình từ 50 năm trước. Bức thư có đoạn viết: “Số phóng viên đang công tác Bình Định ở lại toàn bộ để phục vụ chiến dịch... Chị muốn đưa em đi khu Đông với chị nhưng biết rằng ở đó hiện nay tình hình rất căng thẳng, ác liệt. Vượt đường trong này không giống như đường Phù Mỹ, Hoài Nhơn. Nhất là hiện nay, địch đang đề phòng ta tấn công nên phục suốt ngày đêm, ta đã có nhiều đoàn phải tổn thất trên đường lên xuống và trong khi hoạt động ở dưới... Ở trên mảnh đất miền Nam này không ai nói được chỗ nào là chỗ an toàn, sung sướng... Chị dặn em nên cẩn thận trong khi đi lại, chú ý tránh bom pháo, đừng chủ quan...”. Và đoạn tái bút: “Chị mới nhận được tin (chưa chính thức) cậu Lưu đã hy sinh trong trận chiến đấu chống càn ở xã Bình Giang, Bình Khê trong đợt tập huấn vừa qua”...

Đoạn trích trên giúp chúng ta hôm nay hình dung được phần nào hoàn cảnh, công việc hiểm nguy của các nữ phóng viên chiến trường ngày ấy. Còn ở hậu phương thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các nữ nhà báo cũng phải đối mặt với những áp lực không nhỏ. Nhà báo Vũ Kim Hải, đồng nghiệp của nhà báo Lệ Thu và Trịnh Kim Anh kể: “Vào những ngày ấy, tôi ở Phân xã Thông tấn xã tại Hải Phòng, với chiếc xe đạp Phượng Hoàng, cũng luôn sẵn sàng có mặt ở các trận địa pháo, nhà máy, bến cảng, ruộng đồng dù xa 30-40 cây số. Và cũng từng biết thế nào là B-52, F-4, không ít lần đi bên bom nổ chậm, đối diện với chiến tranh phá hoại của địch...”.

Đất nước hòa bình, những người làm báo thời kỳ đổi mới đã và đang bước vào cuộc chiến mới cũng không kém phần cam go. Nối tiếp các nữ nhà báo chiến trường, các nữ nhà báo, phóng viên trẻ hiện nay được đào tạo kỹ năng làm báo bài bản, được trang bị phương tiện tác nghiệp hiện đại, ngoại ngữ tốt là những ưu thế giúp họ tự tin, giàu bản lĩnh và sáng tạo. Bởi vậy, báo giới xuất hiện nhiều nữ phóng viên, biên tập viên, nữ tổng biên tập giỏi nghề, dám nghĩ, dám làm... Nhiều thương hiệu báo chí trở thành những dấu son của báo chí đổi mới, nhờ có những đóng góp không nhỏ của các chị.

KIM HOA