Từ đam mê văn chương đến làm báo
Nhà thơ Phạm Đình Ân sinh năm 1946 tại Hà Nam. Chưa đầy một tuổi, ông theo cha mẹ chuyển về Hưng Yên sinh sống, không lâu sau, mẹ ông qua đời vì bạo bệnh. Tuy nhiên, tình yêu thương của cha và mẹ kế sau này đã bù đắp nỗi mất mát lớn lao của cậu bé Phạm Đình Ân. Ông kể, cha ông âm thầm khuyến khích con bằng cách đọc sách, chép thơ, nhất là thơ Nguyễn Bính và luôn tự hào về những gì con trai mình viết ra. Mẹ kế cũng yêu văn chương, thường đọc “Truyện Kiều”, “Chinh phụ ngâm”, thơ chữ Hán và ngâm nga những vần thơ. Chính môi trường ấy đã nuôi dưỡng tình yêu văn học trong ông từ rất sớm.
Phạm Đình Ân bắt đầu sáng tác thơ, viết truyện từ khi còn là học sinh cấp 2. Năm lớp 9, ông vinh dự nhận phần thưởng cộng tác viên của Báo Thiếu niên Tiền phong. Lên cấp 3, ông tiếp tục khẳng định được năng khiếu văn chương của mình và tham dự kỳ thi học sinh giỏi văn toàn quốc. Tốt nghiệp phổ thông, ông được tuyển chọn vào Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Khi đang học năm thứ ba đại học (năm 1968), ông có bài thơ đầu tay “Khi trận đánh vừa ngừng” đăng trên Báo Văn nghệ, đánh dấu sự ra mắt chính thức của Phạm Đình Ân trên thi đàn.
Tốt nghiệp đại học (năm 1969), Phạm Đình Ân được về công tác tại Báo Nhân Dân. Ban đầu, ông tham gia Ban Tiểu phẩm và cùng nhà báo, nhà thơ Phạm Lê Văn phụ trách chuyên mục “Chuyện lớn... Chuyện nhỏ”, đồng thời tham gia mục "Ca dao" với lối viết trào phúng, hóm hỉnh nhưng sâu sắc. Sau đó, ông lần lượt làm việc ở Ban Bạn đọc, Ban Văn hóa Văn nghệ và Ban Thư ký. Tại đây, niềm say mê ngôn ngữ của ông ngày càng sâu sắc, ông chú ý kỹ từng từ ngữ khi biên tập và thuộc lòng nhiều chi tiết trong “Từ điển tiếng Việt”. Điều này giúp ông nâng cao kỹ năng làm báo, đồng thời bồi đắp chiều sâu cho thơ ca và công việc nghiên cứu, biên soạn sau này. Trong thời gian gắn bó với Báo Nhân Dân, ông tình nguyện đi thực tế ở vùng đất lửa Quảng Bình, rồi làm phóng viên thường trú tại tỉnh Vĩnh Phú và Lạng Sơn... Những trải nghiệm và con người gặp gỡ nơi đây trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo quý giá với nhà báo Phạm Đình Ân.
Sau hơn một thập niên công tác tại Báo Nhân Dân, với tình yêu sâu sắc dành cho văn chương, Phạm Đình Ân chuyển về Báo Văn nghệ-cơ quan ngôn luận của Hội Nhà văn Việt Nam. Tại đây, ông phát huy sở trường viết lách, biên tập và lý luận phê bình. Từ năm 1997, ông làm Trưởng ban Lý luận-Phê bình, thực hiện nhiều chuyên mục, chuyên đề văn chương, góp phần tạo nên không gian sôi động, đa dạng trong đời sống báo chí văn nghệ, đặc biệt là chuyên mục “Dọn vườn”-một trong những chuyên mục đặc sắc của báo. Ông không chỉ biên tập mà còn trực tiếp tham gia viết bài.
Với Phạm Đình Ân, làm báo không chỉ là công việc mà còn là cách để ông đến gần hơn với cuộc sống. Ông từng nói, không có sự phân chia rạch ròi giữa “nhà báo” và “nhà thơ” trong ông, bởi hai công việc ấy song hành, cùng bồi đắp cho nhau. Ông viết báo như một người cầm bút chính trực và nhân hậu; làm thơ như một người chiêm nghiệm, tự vấn và sẻ chia. Điều đáng quý ở ông là không xem báo chí là bệ đỡ hay công cụ phô trương mà âm thầm làm nghề, lấy công việc làm chuẩn mực và tác phẩm làm thước đo năng lực.
    |
 |
Nhà báo, nhà thơ Phạm Đình Ân. Ảnh do nhân vật cung cấp |
Trải lòng với thơ, vun đắp tâm hồn trẻ nhỏ
Thi ca với Phạm Đình Ân là chốn trú ẩn của những suy tư thầm kín. Suốt hơn nửa thế kỷ cầm bút, ông lặng lẽ bền bỉ sáng tác như con ong cần mẫn. Mỗi bài thơ của ông đều chất chứa chiều sâu cảm xúc cùng những trăn trở, suy tư về con người, thời đại và chính bản thân. Bài “Đi dọc miền Trung” của ông ra đời trong chuyến đi vào vùng đất lửa Quảng Bình khi còn là phóng viên Báo Nhân Dân. Sau “Đi dọc miền Trung” và “Phi lao” được in trên Tạp chí Tác phẩm mới, Phạm Đình Ân tiếp tục ghi dấu ở nhiều sáng tác mới như bài: “Sợi tóc”, “Gai táo sắc”, “Những cái giật mình”...
Bài “Sợi tóc” là một trong những tác phẩm chạm đúng vào cảm thức người đọc, đã được nhiều người phân tích, bình giảng, trong đó nhiều ý kiến cho rằng đây là một trong số những bài thơ tình hay, một thi phẩm vượt khỏi giới hạn thời gian và lứa tuổi: Em tặng tôi sợi tóc của em/ Rồi ngày tháng vèo trôi,/ em không nhớ nữa/ Năm mươi năm sau/ khi tìm được về chốn cũ/ tôi gặp một bà già tóc bạc/ bà chẳng biết tôi/ tôi tặng bà sợi tóc/ Bà khóc/ Sợi tóc vẫn còn đen.
Nhiều tập thơ của ông như “Nắng xối đỉnh đầu”, “Những hoàng hôn ngẫu nhiên”, “Vòng quay”... đều cho thấy một Phạm Đình Ân giàu trăn trở, không ngừng suy tư về giá trị sống. Nhà báo, nhà lý luận phê bình Phạm Ngọc Luật thì nhận định: “Thơ của Ân không thể đọc lướt qua chỉ một lần. Cứ đọc thêm và đọc thêm, qua lớp vỏ ngôn ngữ có cảm giác cưng cứng ấy, sẽ vỡ ra nhiều điều lý thú và dễ chịu. Anh làm thơ bằng những hoàng hôn ngẫu nhiên và đặc biệt bằng nhiều những hoàng hôn nung nấu. Anh làm thơ bằng tất cả sự đảm đang và cẩn trọng; bằng tất cả tâm và lực...”.
Song hành cùng thơ thế sự, Phạm Đình Ân còn là một trong số ít tác giả gắn bó lâu dài và nghiêm túc với văn học thiếu nhi-một mảng sáng tác đòi hỏi sự trong sáng, trách nhiệm và tận tâm. Ông bắt đầu viết cho thiếu nhi từ thập niên 1970 và đến nay có khoảng 20 đầu sách in riêng cho lứa tuổi nhỏ. Nhiều tác phẩm của ông được đưa vào sách giáo khoa, sách tham khảo và các tuyển tập do nhiều nhà xuất bản uy tín phát hành như: “Tắc kè hoa”, “Trăng của bé”, “Giấu cô trong tủ”, “Năm anh em”, “Sao Hôm, sao Mai”... Đặc biệt, bài “Sắc màu em yêu” được in trong sách giáo khoa đã trở thành một sáng tác mẫu mực cho sự kết hợp giữa thơ ca và giáo dục giá trị sống: Em yêu màu đỏ/ Như máu trong tim/ Lá cờ Tổ quốc/ Khăn quàng đội viên...
Với nhịp thơ vui tươi, hình ảnh sinh động, thơ ông mở ra thế giới gần gũi, truyền cảm hứng khám phá thiên nhiên, vũ trụ, thời gian-những khái niệm tưởng chừng trừu tượng đối với trẻ nhỏ. Một điểm dễ nhận thấy trong thơ thiếu nhi của Phạm Đình Ân là sự kết hợp tinh tế giữa kiến thức đời sống và trí tưởng tượng phong phú. Bài “Tắc kè hoa” in trong tập thơ cùng tên (NXB Kim Đồng, 1996) là một ví dụ: Có bạn tắc kè hoa/ Xây lầu trên cây đa/ Rét chơi trò đi trốn/ Đợi ấm trời mới ra...
    |
 |
Một số tập sách thơ, văn của tác giả Phạm Đình Ân.
|
Bài “Quà của bố” viết trong chuyến đi Trường Sa năm 1997 cũng là một thi phẩm giàu cảm xúc, từng được Báo Văn nghệ trao giải: Bố em là bộ đội/ Ở tận vùng đảo xa/ Chưa lần nào về phép/ Mà luôn luôn có quà... Tác phẩm sau này được in trong sách giáo khoa, được phổ nhạc, được nhiều bạn đọc và chiến sĩ ở đảo yêu thích.
Với Phạm Đình Ân, việc viết cho thiếu nhi là sứ mệnh lâu dài, một cách gieo hạt tâm hồn vào trẻ thơ. Ngoài sáng tác, ông còn biên soạn nhiều tập sách tra cứu, giải nghĩa văn học dân gian dành cho học sinh như: “Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ”, “Vào đời cùng lời ca dao”, “Chuyện kể thành ngữ”... Những tác phẩm này không chỉ giúp trẻ học tiếng Việt mà còn dạy các em cách yêu tiếng mẹ đẻ, hiểu cội nguồn, sống có văn hóa.
Nhà thơ Phạm Đình Ân cho biết, khi sáng tác thơ cho người lớn, ông đặc biệt quan tâm đến tứ thơ, sự súc tích trong cấu trúc và cách sử dụng ngôn từ. Với ông, thơ không chỉ là cảm xúc mà còn là sự chiêm nghiệm về số phận con người, nơi lắng đọng những chiều sâu của đời sống. Còn với thơ thiếu nhi-mảng sáng tác ông theo đuổi nhiều hơn thời gian gần đây lại hướng đến việc giáo dục kỹ năng sống đẹp cho trẻ em. Ông nhấn mạnh đến vai trò của tình cảm gia đình và ý thức cộng đồng như những giá trị cốt lõi cần được nuôi dưỡng từ sớm
Với gần 40 tập sách đã được xuất bản, trong đó có 6 tập thơ viết cho người lớn, 9 tập thơ thiếu nhi, 4 tập văn xuôi, 1 cuốn phê bình và nhiều tuyển tập in chung, đặc biệt khoảng 10 bài thơ được phổ nhạc, Phạm Đình Ân là gương mặt tiêu biểu của văn học thiếu nhi đương đại. Không chỉ là nhà thơ, Phạm Đình Ân còn là một cây bút phê bình và nhà báo tận tụy với nhiều đóng góp giá trị cho văn học và báo chí. Cuộc đời ông là minh chứng cho một người sống trọn vẹn với chữ nghĩa, bền bỉ gieo hạt ngôn từ và truyền lửa tình yêu văn học cho các thế hệ sau.
ĐẶNG THỦY