Nhà văn, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Thi (1928-1968) tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, còn có bút danh khác là Nguyễn Ngọc Tấn, quê ở Hải Hậu, Nam Định. Những ghi chép của Nguyễn Thi để lại có phần chỉ có giá trị tư liệu nằm trong mấy chục cuốn sổ tay; có phần là nhật ký, hoặc thư từ. Phần ghi chép trước năm 1954 có khá nhiều, trong đó đã được công bố là chùm "Nhật ký 1953-1955" ông gửi lại cho thủ trưởng Thanh Tịnh, Chủ nhiệm Tạp chí Văn nghệ Quân đội, trước khi vào Nam năm 1962, giúp sáng rõ một ít góc khuất của đời riêng, với người vợ trước có tên là Bình Trang. Phần ghi chép sau năm 1962 chiếm hơn một trong 4 tập của Toàn tập ấn hành năm 1996, trong đó có chùm 25 bức thư gửi người vợ sau ở miền Bắc có tên Nguyễn Thị Xuân và con trai là Nguyễn Thi.

Qua "nhật ký" và "ghi chép", thấy hiện lên thật trung thực và rõ nét con người Nguyễn Thi, tác phẩm Nguyễn Thi. Nó là bộ phận cần thiết, không thể thiếu, để soi sáng thêm những trang văn đã viết xong, như: "Người mẹ cầm súng", "Chuyện xóm tôi", hoặc còn bỏ dở như: "Ở xã Trung Nghĩa", "Sen trong đồng". Nó còn giúp soi tỏ cả những góc khuất của đời riêng, với những u uẩn, hoặc bi kịch, do hoàn cảnh, hoặc do quan hệ sống của con người Nguyễn Thi-quả không bằng an và phẳng lặng trong đường đời và số phận. Dẫn một đoạn nhật ký ông ghi ngày 30-12-1950 theo sách của Nhị Ca: “Đời tôi, từ lòng thương mẹ, trình độ học thức, ngày vui sướng, cuộc tình duyên, cho tới sự nghiệp cách mạng và tương lai ngày mai về văn nghệ, tất cả đều là lận đận và bỏ dở” (trang 26). Đó là trang ghi cho tuổi 22, đúng với một khoảng đời không thảnh thơi, suôn sẻ lắm của Nguyễn Ngọc Tấn ở tuổi thiếu niên, từ Bắc vào Nam kiếm sống, và tuổi thanh niên tham gia cách mạng và kháng chiến ở Nam Bộ. Vẫn còn 18 năm nữa cho đến năm 1968-năm tác giả hy sinh ở chiến trường để tiếp tục ứng nghiệm tâm thế “lận đận” và “dang dở” của ông.

Là con của người mẹ kế, bố mất khi mới 9 tuổi, thuở nhỏ Nguyễn Thi từng có lúc theo mẹ vào nhà tù sau thời kỳ cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Vì mưu sinh, ông phải theo một gánh hát vào Sài Gòn, ở với người anh cùng cha khác mẹ. Năm 1945, Nguyễn Thi lạc gia đình, rồi gia nhập quân đội, làm công tác chính trị, tuyên huấn, văn nghệ trong quân đội. Được nhận giải ba trong Giải thưởng Văn nghệ Cửu Long Giang, nhưng Nguyễn Thi chưa là một cây bút tên tuổi. Năm 1954, ông cưới vợ, một cô gái Sài Gòn, ra bưng biền tên là Bình Trang, rồi tập kết ra Bắc, để lại vợ và con gái Trang Thu ở miền Nam. Tám năm ở miền Bắc, trong đại gia đình Văn nghệ Quân đội ở số 4 Lý Nam Đế (Hà Nội), từ đấy bút danh Nguyễn Ngọc Tấn mới thật là một cái tên quen bên cạnh những: Hữu Mai, Nguyễn Khải, Hồ Phương, Xuân Thiều, Trúc Hà... để cùng góp phần làm nên một mùa văn chương in dấu thời điểm “Xuân 61”, “Đỉnh cao muôn trượng” (Tố Hữu)...

leftcenterrightdel

Nhà văn Nguyễn Thi (1928-1968). Ảnh tư liệu

Tám năm, trong niềm vui xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Nguyễn Ngọc Tấn vẫn khôn nguôi thương nhớ và ngóng vọng về Nam-nơi ông có một gia đình nhỏ, với người vợ đầu mới cưới và đứa con gái đầu lòng mà ông chưa hề biết mặt. Thế nhưng cái tổ ấm ấy đã không còn giữ được. Và truyện ngắn "Im lặng" (Văn nghệ Quân đội số 12-1957) như một hồi quang của nỗi niềm riêng ấy. Trong thiên truyện đầy ám ảnh của bóng tối và dông bão, của day dứt và vật lộn nội tâm này, người vợ ở miền Nam đã không thể yên ổn để chờ chồng. “Im lặng”-đúng như tên truyện, ghi nhận sự chống trả quyết liệt trong im lặng của người vợ-để bảo vệ cách mạng và bảo vệ tình yêu.

Thế nhưng trước bạo lực và mọi âm mưu nham hiểm của đối phương, người vợ, trong yếu đuối và thế cô, đã không thể giữ lại được những gì cần giữ. Điều kỳ lạ và cũng có thể là dễ hiểu trong sự gắn nối của những nghịch lý, bên cạnh và tiếp nối "Im lặng", lại là những trang đằm thắm, đầy chất thơ về tình đồng đội, tình yêu, tình quê hương và niềm vui lao động, nơi hai tập truyện có tên là "Trăng sáng" và "Đôi bạn" cùng ra đời vào lúc này. Con người rồi đây sẽ cho ta những trang tuyệt vời về cảnh và người của Đồng bằng sông Cửu Long, của Bến Tre, Mỹ Tho và Long An, cũng là người từng viết rất hay về quê hương miền Bắc trên dọc dài quốc lộ miền Trung trong một truyện với tựa đề "Quê hương": “Xe hơi đưa tôi vào quãng đường râm mát. Những cái gì thuộc về quê hương lại nối tiếp hiện ra: Vài cái lá bánh rơi ngoài cửa, có lẽ ngôi nhà ấy vừa có người mẹ về chợ; trên một cái cầu ao, một em bé chừng 7-8 tuổi đang tắm đã biết kéo quần lên che kín ngực, sự thẹn thùng sớm sủa về giới tính rất thân thuộc của quê ta; xa xa một vuông phản lau nhau toàn trẻ con đang ngồi ăn cỗ dưới bóng mát của một cái rạp dài: Đám cưới hay đám giỗ? Gánh cỏ của cô gái nào đó dang dở rửa chân dưới bến còn để ở chân cầu”.

Hẳn phải có một thôi thúc ghê gớm lắm mới khiến Nguyễn Ngọc Tấn quyết liệt đến thế trong nguyện vọng trở về Nam. Và có phải là một sắp xếp của số phận không, lần này trở về Nam, Nguyễn Ngọc Tấn đã để lại hậu phương miền Bắc người vợ thứ hai, cũng vừa mới sinh một đứa con, có cái tên rồi trở thành bút danh mới của ông xuất hiện 3 năm sau: Nguyễn Thi. Một con gái ở miền Nam, một con trai ở miền Bắc, trong hai lần xây dựng gia đình; cả hai con-đứa lớn người cha chưa từng biết mặt, đứa bé phải chia tay khi mới được dăm tháng tuổi. Có lẽ vì thế chăng, Nguyễn Ngọc Tấn, rồi Nguyễn Thi đã gửi cả vào hai miền đất nước một tình yêu thương sâu thẳm và bền chắc tưởng khó có ai sánh được. Bởi tình thương ấy, nỗi nhớ ấy, niềm khao khát gặp gỡ và đoàn tụ ấy, trong gắn nối giữa riêng và chung, giữa gia đình và đất nước, ông đã dồn đến cùng, rồi dồn hết vào tất cả những trang viết của mình.

leftcenterrightdel

Bìa tác phẩm "Người mẹ cầm súng" của nhà văn Nguyễn Thi do Nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành năm 2019.

Người cha của hai con-một ở Nam, một ở Bắc, đã hy sinh mà chưa từng có hạnh phúc và trách nhiệm làm cha. Người chiến sĩ đã ngã xuống ở tiền tiêu khi hành trình đến ngày đại thắng phải còn thêm bảy năm nữa! Mọi lời bình ở đây, tôi nghĩ đều là bất lực, bởi làm sao mà nói hết được nỗi xót xa cho những dang dở của một con người có thể nói là xứng đáng đứng ở hàng đầu trong đội quân chiến thắng của giới văn nghệ vào ngày vinh quang của dân tộc.

Tôi nói xứng đáng ở hàng đầu, không phải chỉ vì một sự hy sinh anh dũng và oanh liệt trên chiến trường, với khẩu súng trong tay, mà còn là, hoặc trước hết là, cùng với khẩu súng còn là cái bòng đựng bản thảo-những bản thảo còn dang dở trên lưng. Những bản thảo-cái mang theo nơi chiếc bòng, cái để ở hậu cứ, cái đã được in, cái chưa in, cùng những ghi chép chi chít trong mấy chục cuốn sổ tay-đó mới là mục tiêu cơ bản và số một cho một cuộc đi vào chiến trường, và đến với những trận đánh ngay trên đường phố Sài Gòn là cái đích đến thiêng liêng của bất cứ người viết nào ở Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước. Sáu năm vào nửa nước phía Nam, trong dữ dội và khốc liệt của chiến trường Nam Bộ và vùng ven Sài Gòn, Nguyễn Thi liên tục đi và viết. Và đi là để viết, viết dưới mưa bom và pháo bầy, viết trong các cuộc chống càn, viết giữa hai trận đánh... Là người lính, với sứ mệnh được trao là viết, Nguyễn Thi đã có đủ cả hai tư thế, để đồng thời làm cả hai việc; nhưng khao khát lớn nhất của ông là làm sao có thể tranh thủ mà viết, để viết cho được. Và viết là viết cho đất nước, cho nhân dân, cho bà con, cô bác, cả miền Bắc và miền Nam nơi đâu cũng ruột rà, thân thiết đối với ông, cho chính người thân của ông. Và viết gì? Ở mục tiêu cao nhất và thiêng liêng nhất, đó là viết về chiến công của nhân dân; về bản lĩnh và khí phách của nhân dân; về tâm hồn và trí tuệ, nỗi đau và niềm tin của nhân dân... Với hai vũ khí: Cây súng và cây bút, Nguyễn Thi đã tuyệt đối và trọn vẹn làm tròn trách nhiệm của mình, ở những trang viết, nó là mục đích cuối cùng của một người viết văn trong ý nghĩa chân chính của từ này.

Sáu năm vào chiến trường miền Nam, chỉ với khoảng trên dưới dăm năm viết, tất cả những gì Nguyễn Thi đã chuyển được lên trang giấy-nó là bản thảo của những "Người mẹ cầm súng", "Những đứa con trong gia đình"..., hoặc còn dang dở như "Ở xã Trung Nghĩa", "Sen trong đồng"... đều có thể minh chứng cho sức mạnh kỳ diệu của ngôn từ-ngôn từ Nguyễn Thi. Một ngôn từ thật là giàu có, là biến hóa, là linh hoạt và còn là kỳ diệu nữa, trước yêu cầu dựng một kỳ đài hùng vĩ về nhân dân Việt Nam trong chiến đấu và nhất định sẽ chiến thắng.

Với một khẩu súng, ai đó, kể cả Nguyễn Thi, có thể giết một hoặc nhiều tên địch. Với những trang giấy, Nguyễn Thi đã làm thức dậy nguồn sức mạnh tinh thần của một và nhiều thế hệ; lưu lại cho hậu thế bức tranh cực kỳ sắc nét và thấm đẫm tình người về đồng bào miền Nam, về nhân dân Việt Nam trong một cuộc chiến dữ dội và khốc liệt vào bậc nhất của lịch sử dân tộc, trong nửa sau thế kỷ 20.

Tháng 7-2022

GS PHONG LÊ