1. Giữa thập niên 1980, khi tôi trở thành phóng viên tờ tin Binh đoàn Tây Nguyên thuộc Cục Chính trị Quân đoàn 3 thì phải nói thật rằng niềm khao khát lớn nhất của tôi là được có tin, bài đăng trên Báo Quân đội nhân dân (QĐND).

Không phải vì hiếu danh, không phải vì tiền nhuận bút mà ở thời điểm ấy, mỗi một tin, bài được xuất hiện ở tòa báo quân nhân N1 (Number One) ấy là một sự khích lệ rất quan trọng đối với tôi, để tôi thêm tin tưởng vào sự đổi nghề của mình là đúng và thêm vững lòng đi theo nghiệp cầm bút trong màu áo lính. Tôi vốn được đào tạo chính quy 6 năm bên Liên Xô để làm một kỹ sư vô tuyến điện quân sự và phải là người có sự say mê ngoài tưởng tượng mới bỏ một công việc chuyên môn giàu triển vọng như thế để làm một nhà báo chưa rõ tương lai sẽ như thế nào... Tôi nhớ, ở thời điểm đó, anh Hồng Diệu, một nhà phê bình văn học ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, từng công tác trong Binh chủng Thông tin liên lạc, rất quý tôi, nhưng cũng đến nhà nói với bố tôi, chú đừng để Quang bỏ nghề kỹ sư sang làm báo, vì làm báo thì chả thể sống đủ nhờ tiền nhuận bút đâu... Tuy nhiên, tôi đã vượt qua mọi sự can ngăn (đầy thiện chí) để theo đuổi mơ ước của mình.

 Làm phóng viên cấp quân đoàn ở Tây Nguyên, trong cách nghĩ của tôi lúc ấy, mọi thứ thuộc về Báo QĐND đều mang những màu sắc lung linh, như những tấm gương mà mình cần soi vào để lấy thêm cảm hứng và động lực phấn đấu. Được gặp những nhà báo từ số 7 Phan Đình Phùng vào Tây Nguyên công tác là tôi rất thích, luôn muốn làm cho “các bác ấy” vui, không phải để nhờ cậy gì đâu mà trong tư duy nguyên thủy của tôi, những đồng nghiệp ấy rất đáng ngưỡng mộ.

Tới giờ tôi vẫn nhớ một chuyện, năm đó có nhà báo Nguyễn Mạnh Hùng vào Pleiku (Gia Lai) công tác, có đến tòa soạn chơi. Anh Đắc Sinh, khi ấy là Đại úy, Phó tổng biên tập nhưng trong thực tế là phụ trách trực tiếp Ban biên tập tờ tin Binh đoàn Tây Nguyên, một người rất có mắt xanh và mực thước, lấy quỹ cơ quan nói tôi ra chợ trung tâm thị xã mua thêm rau cho bữa ăn tươi đãi khách Thủ đô. Thời đó, Quân đoàn 3 mới chuyển dịch lại về Tây Nguyên, đời sống mọi cấp đều thiếu thốn. Ở Pleiku, rau còn đắt hơn thịt. Khi dùng tiền cơ quan mua thêm rau xong rồi, tôi cảm thấy cứ in ít thế nào nên bấm bụng bỏ tiền cá nhân ra mua thêm ít đồ ăn nữa. Hồi đó, tôi mới là Trung úy, độc thân nhưng luôn phải viết thư về nhà xin mẹ trợ cấp, thậm chí nhiều lần phải bán bớt quân phục để có tiền đãi bạn mỗi khi viết được bài gì hay in báo mà mọi người tán thưởng.

Tối hôm ấy, trong bữa ăn, tôi cứ háo hức chống đũa nghe hai bậc đàn anh rượu vào lời ra nói chuyện nghề, chuyện đời. Mồi cũng tươm tất nên xem ra mọi sự càng rất vui... Tuy nhiên, là người tinh tường và thấu hiểu, sáng hôm sau, anh Đắc Sinh đã “mắng” tôi về tội tiêu hoang. Tôi không dám cãi nhưng bụng thì nghĩ, em có lấy tiền của chung đâu... Đơn giản là tôi đã rất vui khi được ngồi cùng mâm với “người của Báo QĐND”!

leftcenterrightdel

Nhà báo Hồng Thanh Quang (bên phải) và đồng nghiệp trao đổi công việc tại Báo Quân đội nhân dân. Ảnh do tác giả cung cấp

 

 2. Rồi tôi trở thành phóng viên của Báo QĐND từ cuối tháng 8-1988 sau khi được nhận quân hàm Thượng úy theo đúng niên hạn trước đó một hai tháng. Về Hà Nội mới biết là khi họp giao ban tòa soạn, bàn tới việc lấy tôi về thì lãnh đạo 3 phòng biên tập là Quân sự, Văn hóa và Thời sự quốc tế đều đề nghị nhận tôi làm người của phòng mình. Cuối cùng, Tổng biên tập Trần Công Mân quyết định đưa tôi về Phòng biên tập Thời sự quốc tế vì “cậu ấy học ở Nga về, chắc thạo tiếng Nga!”. Vì chuyện này nên sau đó, anh Trần Nhung, Phó phòng biên tập Thời sự quốc tế, lần đầu gặp tôi đã trách: “Cậu muốn về đâu thì phải nói rõ, không nên để cả 3 phòng phải làm như tranh nhau thế!”. Khổ thân tôi, ở Tây Nguyên thì tôi đâu có biết phòng nào với phòng nào, ai hỏi có muốn về Hà Nội làm Báo QĐND thì tôi cũng đều gật hết...

Bây giờ nhìn lại quãng thời gian làm việc ở tòa soạn Báo QĐND, tôi thấy mình thật may mắn. Với tôi, đó là nơi thấm đẫm những yêu thương và tình đồng đội, ngay cả trong những vấp váp và thử thách. Tôi vốn bước vào nghề báo theo bản năng, không được học thầy, toàn học đồng nghiệp. Tháng đầu tiên ở Phòng biên tập Thời sự quốc tế, tôi phải học trực tin với sự giúp đỡ của các đồng nghiệp đi trước. Gần gũi tôi nhất lúc đó là anh Đức Nguyện và chị Minh Tâm. Kết thúc giai đoạn thực tập, tối trên đường đạp xe về nhà, tôi mời anh Nguyện và chị Tâm vào quán cà phê nhỏ ở gần Văn Miếu-Quốc Tử Giám, gọi là để cảm ơn. Mỗi người chỉ gọi một ly cà phê đá. Tan cuộc, tôi ra thanh toán tiền, sờ túi thì thấy không đủ tiền trả, phải nói khó với anh chủ quán cho để lại chứng minh thư để ngày hôm sau qua trả nốt chỗ thiếu. Anh chủ quán cựu chiến binh thấy mặt tôi có thể tin được nên vui vẻ đồng ý ngay... Ôi, một thời làm báo thanh bần mà rất vui, tiền ít nhưng tình cảm lại rất nhiều!

 3. Khi tòa soạn xúc tiến thành lập tờ QĐND Thứ bảy (nay là Báo QĐND Cuối tuần), tôi thoạt tiên chưa được chọn vì ý tưởng là phải đưa những nhà báo có kinh nghiệm trong nghề và có thể làm tươi tắn cách thể hiện những chủ đề quen thuộc. Tức là chí ít cũng phải “lão làng”. Tôi nhớ, lúc đó có không ít ý kiến khác nhau. Ngay cả bác Trần Công Mân, trưởng lão trong làng báo quân nhân, nguyên Tổng biên tập, cũng cho rằng “đội khăn xếp khó nhảy đầm”! Các nhà báo tên tuổi ở phòng chuyên môn của mình thì đều có những triển vọng tương đối vững chãi, không nhiều người muốn “phiêu lưu” sang một ấn phẩm mới mà nói thực, chưa ai hình dung cụ thể sẽ ra sao.

Tuy nhiên, Tổng biên tập mới là anh Phan Khắc Hải (Phong Hải) đã đủ quyết tâm và tài tổ chức để thành lập Ban biên tập QĐND Thứ bảy với sự chỉ đạo trực tiếp của Phó tổng biên tập lúc đó còn trẻ là anh Phạm Huy Khảo. Toàn là những người cá tính rất mạnh và ít nhiều “có máu liều”, tức là những người nghĩ đến cơ hội được làm việc sáng tạo nhiều hơn là cơ hội thăng tiến như: Phạm Quang Đẩu (Kinh tế-Xã hội), Đỗ Trung Lai (Văn hóa-Văn nghệ), Hoàng Huân (Quân sự), Kinh Quốc (Nhiếp ảnh), Lê Hà (Câu lạc bộ chiến sĩ)... Họa sĩ là Dương Trí Dũng, một người tài hoa mọi nhẽ... Phần Thời sự quốc tế thoạt tiên cũng nhằm vào một phó phòng, nhưng vì anh ấy từ chối nên rốt cuộc, thử thách này lại... rơi trúng đầu tôi. Là phóng viên trẻ, ham làm ham chơi nên tôi rất thích thú khi mình được chọn vào một đội hình vừa hùng hậu vừa “khó chịu” nếu nhìn từ góc độ của những ai muốn một công việc bình yên vô sự.

Khi còn trẻ, tôi từng nghĩ, một ấn phẩm hay là nhờ những phóng viên giỏi. Sau này, trưởng thành hơn, tôi đã hiểu ra, để có một ấn phẩm hay thực sự thì còn cần hơn nữa là người chỉ huy cứng tay lái, có mắt xanh và biết liên tài, biết điều hành những tay nghề giỏi trên cơ sở khéo léo kết hợp những cá tính mạnh. Tổng biên tập Phan Khắc Hải và Ban biên tập thời đó đã làm được điều này, khích lệ những cái hay, kiềm chế những sự quá đà, xử lý hợp tình những vụ việc.

“Cái thuở ban đầu” đâu chỉ toàn những điều kiện thuận lợi, mà tính cách mỗi một thành viên trong Phòng biên tập Báo Cuối tuần thời đó thì chẳng ai giống ai, thậm chí có những người còn gần như trái ngược nhau. Thế mà chúng tôi đã hợp sức cùng nhau làm được một ấn phẩm đã là niềm vui chung của độc giả, đặc biệt là những người đọc mặc áo lính.

Cá nhân tôi, dù nhiều thời gian đã trôi qua, dù đã trải qua nhiều cương vị khác nhau, từng công tác ở không chỉ một cơ quan báo chí, nhưng trong lòng vẫn giữ nguyên một sự tri ân và kính trọng những đồng nghiệp của mình trong cái tập thể rất bản sắc và hiệu quả ấy. Khi chung tay thực hiện nhiệm vụ sáng tạo, không có sự thống nhất ý chí nào tuyệt vời hơn sự đồng tâm trong nền nếp kỷ luật quân nhân của những cá tính mạnh! Chính tại đó, tôi đã được khích lệ và ủng hộ trong những thể nghiệm báo chí đầu tiên của mình để sau này thực hành trên những ấn phẩm khác với những trọng trách lớn hơn. Và tôi nghĩ rằng, các anh như nhà văn Phạm Quang Đẩu, nhà thơ Đỗ Trung Lai... khi nhớ lại các đoạn đường sáng tạo của mình cũng không thể không xúc động về một thời cùng nhau làm Báo QĐND Thứ bảy-Báo QĐND Cuối tuần nói riêng và Báo QĐND nói chung.

HỒNG THANH QUANG