Tháng 4-1969, Vũ Quang Đồng cùng 79 chiến sĩ đặc công hành quân vào chiến trường Đông Nam Bộ sau thời gian huấn luyện ở miền Bắc khá dài. Ông được điều về chiến đấu ở Phân khu I, Tây Bắc Sài Gòn-Gia Định, một trong những nơi ác liệt nhất của vùng “tam giác sắt”.
Từ sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Mỹ-ngụy tổ chức nhiều trận càn quét và các biện pháp để đẩy đuổi Quân giải phóng. Giữa năm 1970, địch xây dựng xong các chốt dọc Đường 13, tạo thành một vành đai chiến lược chắc chắn bảo vệ các căn cứ: Lai Khê, Rạch Bắp, Phú Lợi, thị xã Thủ Dầu Một, quận Bến Cát. Từ đây, vùng rừng Long Nguyên trở thành mục tiêu trọng điểm càn quét của địch. Chúng đánh phá suốt ngày đêm. Các địa bàn Dầu Tiếng, Bến Súc, Phú Giáo, Thanh An, Tân Uyên... vốn từng là hậu phương của ta bị địch chiếm giữ. Những làng, ấp như 10, 11, 13... một thời sầm uất bị địch đốt sạch, phá sạch. Địch ráo riết gom vào các làng, ấp nhằm “tát nước bắt cá”. Tất cả các khu dân cư đều có cố vấn Mỹ, bọn bình định, bảo an, phòng vệ dân sự, thanh niên vũ trang, phượng hoàng, thiên nga, chỉ điểm... hoạt động. Chúng tung biệt kích, thám báo vào rừng truy lùng Quân giải phóng. Chúng o ép nhân dân, tăng cường chiến tranh tâm lý, rải truyền đơn. Địch dùng loa công suất lớn trên máy bay OV-10, trực thăng, gọi tên cán bộ người miền Nam và Quân giải phóng người miền Bắc dụ dỗ chiêu hồi.
Trên trời, máy bay phản lực thay nhau giội bom không kể ngày đêm. Chúng dùng cả B-52 rải thảm. Mỗi ngày, vào sáng sớm, hàng đàn trực thăng bay đi bay lại rần rần, bắn rốc-két vào những nơi chúng nghi ngờ, hoặc được chỉ điểm bằng lựu đạn màu...
Dấu ấn sâu đậm của ông Đồng khi chân ướt, chân ráo vào chiến trường "tam giác sắt" là hình ảnh những chiếc máy bay cá rô của địch hạ sát ngọn le, săm soi từng ngọn cỏ, bụi cây. Lính Mỹ ngồi trên đó xả đại liên như vãi đạn vào tất cả các vị trí chúng nghi ngờ. Nếu phát hiện cửa hầm, chúng sẽ quăng lựu đạn... Để tồn tại ở chiến trường này, không bị "làm mồi" ngon cho đối phương, những chiến sĩ đặc công như ông Đồng phải thực hiện phương châm "tránh voi không xấu mặt nào". Ban ngày, ông và đồng đội tìm mọi cách ẩn nấp cho thật kín. Đa phần chiến sĩ nghiện thuốc lá ở miền Bắc vào đến chiến trường này đều phải quyết tâm bỏ, bởi chỉ cần phát hiện khói bất thường trên cây cỏ hoặc mùi khác lạ, thì không lâu sau vị trí đó sẽ hứng chịu những trận bom, đạn khốc liệt.
Trong thời gian ở chiến trường "tam giác sắt", ông Đồng và các chiến sĩ đặc công ít có khái niệm chống càn. Mỗi lần đi càn vào rừng, xe tăng, xe thiết giáp, xe ủi kết hợp với bộ binh của Mỹ-ngụy dàn hàng ngang húc cây cối ngã đổ ầm ầm. Bọn địch chia vị trí càn theo lô rồi bao vây, chia cắt, săn bộ đội. Những cánh rừng bị bom phạt, san ủi rạp đổ ngổn ngang, tơi bời. Những hố bom, pháo dày đặc, chồng lên nhau chi chít... Cả một vùng đất toàn mùi thuốc súng và khói bom. Do càn quét, chà đi xát lại nhiều lần nên rừng xanh trở thành vùng đất trống. Cạnh đó, pháo của địch ở Tân Phú Trung bắn suốt đêm đều đều như ngô nổ. Các làng, ấp ở Lai Khê, An Điền, Thanh An, Thanh Tuyền, An Phú, Nhuận Đức... đều bị san phẳng. Địch dồn dân vào ấp chiến lược, rồi chúng rào lại bằng các loại dây kẽm gai và cài rất nhiều loại mìn, ngăn cản người dân liên hệ với cách mạng. Nhiều cơ sở cách mạng ở địa bàn bị bọn phản bội tố giác, bắt bớ, giết hại...
Trong hoàn cảnh thiếu đủ thứ, những người lính đặc công ở chiến trường “tam giác sắt” vừa phải tự lực cánh sinh, bảo đảm hậu cần, vừa bám địch, đánh cho địch mất ăn, mất ngủ. Ông Đồng kể với giọng lạc quan: "Trong chiến đấu, chúng tôi đã sáng tạo ra một loại “cơm” từ củ nần, chống đói hiệu quả".
Theo lời cựu chiến binh Vũ Quang Đồng, củ nần là củ của loài cây dây leo mọc tự nhiên, có sức sống mãnh liệt, bất chấp bom đạn, chất khai quang và cho năng suất cực cao. Người lính lấy cành nần vùi xuống đất. Không cần chăm sóc nó sẽ phát triển thành rừng nần. Sau 3 tháng sẽ thu hoạch được một bao. Củ chỉ to bằng nắm tay hoặc hơn một chút là vừa ngon... Loại củ này không thể ăn sống, luộc chín ăn vẫn say. Say nần không dẫn tới tử vong, nhưng mệt hơn say rượu và kéo dài 3-4 ngày. Muốn có nần ăn thay cơm thì thái nhỏ rồi ngâm xuống suối. Sau 3-4 ngày đêm, lấy lên, vắt kiệt nước rồi cho vào nồi luộc. Nước sôi, chắt kiệt nước, đợi nần nguội rồi lại vắt kiệt nước. Làm 3 lần như vậy mới ăn được.
Ngoài củ nần, lính đặc công còn hái rau bướm hoặc các loại rau rừng như kim cang, rau rệu, rau ngổ, rau tàu bay hoặc các loại lá rừng không biết tên, nếu nhấm mà không thấy đắng là có thể đem về nấu chung với củ nần. Nếu không có rau thì lấy củ nần chấm muối cũng no bụng. Ông bảo, lá bướm cũng rất kiên cường. Ở đâu bom, pháo nhiều, cây cỏ cháy khét lẹt, ở đó cây lá bướm mọc rất nhanh. Mùa mưa mọc nhanh hơn mùa khô. Lá bướm mùa khô đậm, ít nhớt, ngon hơn mùa mưa... Đổi lại sự khan hiếm lương thực, chiến trường này không thiếu cá. Ở đâu có nước, ở đấy có cá. Lính ta bắt cá ở các vũng, rạch, mương... thậm chí bắt ở hố bom. Lạ cho vùng đất miền Đông này, bom đạn dày như nêm mà các loại cá, tép to, nhỏ vẫn sinh tồn. Bộ đội bắt cá ướp muối rồi cho vào thùng đạn đại liên, sau đó chôn xuống đất, vài tháng sau đào lên được món cá chua, chén với củ nần cũng ngon hết ý.
Những lúc đi trinh sát, điều nghiên hoặc ém chờ tiêu diệt địch dài ngày, ngoài gạo rang, thỏi muối và nước ngọt mang theo, những chiến sĩ đặc công ở chiến trường "tam giác sắt" còn có cách tự làm no bụng khá ấn tượng. Nguyên nhân là nằm trong hàng rào địch nhiều ngày mà chưa được tiếp tế, ông Đồng chọn những búp cỏ xanh non gọi là chíp chíp để ăn và uống nước để lấp đầy bụng đói. Nhưng cũng có thời điểm ông và đồng đội được tiếp tế khá tươm tất nên không bị đói.
Giữa năm 1971 ở Bến Cát, khi cơ sở được củng cố, quân ta từng bước lấy lại địa bàn thì các cơ sở trong dân được củng cố lại, tạo nhiều thuận lợi cho bộ đội đặc công tác chiến. Cựu chiến binh Vũ Quang Đồng kể, “dân vệ” trong các làng, ấp, ban ngày tuần tra rất nghiêm, bắn súng đì đẹt ghê lắm, nhưng đến đêm, chính họ lại cõng gạo, thực phẩm ra khỏi hàng rào cung cấp cho Quân giải phóng. Có lần, ông Đồng và đồng đội nhận được thư, không phải thư của miền Bắc, mà là từ trong ấp gửi ra. Thư viết chỉ có câu: “Các anh giải phóng cần gì cứ nói, đừng đánh ấp chúng em!”... Nghĩ mà thương thương, tội tội...
Cuối năm 1971, ông Đồng và đồng đội được Phân khu cho nghỉ ngơi chuẩn bị đón Tết. Nhưng nghỉ được hai ngày thì cấp trên ra lệnh chuyển lên Suối Cạn, thuộc địa bàn Dầu Tiếng (nay thuộc tỉnh Bình Dương). Vì lệnh di chuyển đột xuất nên họ phải khăn gói gọn nhẹ theo giao liên đi mất 3 ngày 2 đêm mới đến nơi. Họ dừng chân dưới một rừng le thấp, hầm hố có sẵn. Cạnh hầm là con suối gần cạn nước, dương xỉ và rau dớn mọc um tùm, có lẽ vì thế mới có tên là “Suối Cạn”. Từ căn cứ, họ nhìn thấy rừng cao su, xa cũng khoảng hơn một ki-lô-mét. Mùa khô không có mưa nên công tác ngụy trang, xóa dấu vết lối đi cũng phải cẩn thận hơn. Theo thói quen, ông Đồng và đồng đội đi một vòng để xem xét địa hình, địa vật nhằm bố trí cảnh giới, phòng ngự.
Ông hào hứng kể: "Ngay buổi chiều đến cứ mới, anh em chúng tôi được hậu cần Phân khu gọi đi lấy gạo, muối, bột ngọt, dầu ăn, cá hộp... Anh em mang về cả một bộ nồi nấu cơm tập thể. Bữa cơm đầu tiên toàn gạo trắng, tuy hơi hôi nhưng không bị độn. Chúng tôi ăn với rau dớn xào, canh lá chua và thịt lợn muối ngon tuyệt. Hai ngày sau, hậu cần Phân khu lại gọi chúng tôi lên cấp cho 5kg thịt lợn muối và mỗi người hai lon cá mòi Campuchia, nhưng anh em chúng tôi không ăn mà lấy ni lông gói thịt muối lại thật chặt để dành. Kinh nghiệm đầy mình rồi, không thể để “no dồn đói góp”! Đời lính chiến phải luôn nhớ câu “Mặn này nhớ nhạt ngày xưa” để mà tiết kiệm và lúc nào cũng phải “phòng thân”!
Hết phép, chúng tôi lại trở về Bầu Đưng. Trên lưng anh nào cũng cõng một bồng nặng lặc lè, trong đó toàn những của quý: Gạo, đạn và muối. Cồng kềnh nhất là các xạ thủ B40, anh nào cũng cố cõng 7-8 quả đạn. Anh Bảy, chỉ huy của chúng tôi mang nhẹ nhất. Với đôi chân khập khiễng, anh cố gùi một bồng kíp số 8 và dây cháy chậm... Chúng tôi đi mất 4 ngày mới tới Bầu Đưng... nghỉ ngơi được hai ngày lại tiếp tục chia nhau đi bám lộ Lệ Xuân. 10 ngày Tết, địch không hành quân, nhưng trên Đường 13, các loại xe cộ của dân đi lại khá nhiều, chủ yếu là xuôi về Bến Cát-Thủ Dầu Một (nay thuộc tỉnh Bình Dương)... Nhìn những đoàn xe, người khăn gói, vội vã dắt nhau về xuôi, chúng tôi dự cảm như sắp có biến động lớn ở chiến trường...
ĐỨC TÂM