Trong lịch sử tân nhạc Việt Nam, có lẽ không có nhạc sĩ nào gây ra tiếng nổ giai điệu bất ngờ và mạnh mẽ đến thế trong thời khắc của một cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội ngày 19-8-1945, mà lại có một đời thường lặng lẽ đến ngạc nhiên như nhạc sĩ Xuân Oanh. Sự lặng lẽ của thuốc nổ mà không phải ai cũng có. Lặng lẽ giống như tên Quảng Yên quê hương ông nhưng sẵn sàng dựng lên dông bão, sóng lớn tiêu diệt xâm lăng nơi cửa sông Bạch Đằng tạo ra chiến công hiển hách, lẫy lừng trong lịch sử quật cường, chói lọi vàng son của dân tộc ta.

Xuân Oanh tên khai sinh là Đỗ Xuân Oanh. Ông sinh năm 1923 trong một gia đình thợ may nghèo ở Quảng Yên (tỉnh Quảng Ninh). Từ nhà ông ra tới cửa sông Bạch Đằng chỉ chừng mươi mét. Chuyện kể rằng ông ra đời trên một chiếc thuyền chài, cha mẹ ông sinh được 6 người con nhưng chỉ còn lại mình ông. Hoàn cảnh khó khăn nên cha mẹ gửi ông cho gia đình người cậu làm nghề thuyền chài nuôi giúp. Những năm ấu thơ lênh đênh cùng nhà thuyền trên sông nước Bạch Đằng của biển cả vùng Đông Bắc nên ông hấp thụ được tinh hoa và khí phách từ dinh dưỡng của sóng gió sông Bạch Đằng chăng? Và ông như con chim Oanh mùa Xuân cất vang giọng hót của mình trên đường bay sải cánh giữa muôn trùng thử thách của một thời đại đầy biến động ở thế kỷ 20.

Thời tiểu học, Xuân Oanh vừa học giỏi, vừa thành thạo tiếng Pháp, vừa chơi đàn giỏi. Nhưng để mưu sinh, ông đã không từ chối việc gì, từ làm gia sư đến thợ đúc, thợ mỏ, kể cả việc ly hương sang Hải Phòng. Ở đô thị thợ thuyền thành phố cảng, Xuân Oanh đã có cuộc giao thoa thanh xuân trong trường đời, trong ca hát, trong làm lụng và trong hoạt động cách mạng mà khởi đầu là hoạt động yêu nước trong phong trào “Hướng đạo” cùng Văn Cao, Nguyễn Đình Thi. Nếu Nguyễn Đình Thi có bài hát đầu tay về học sinh Trường Bonnal (nay là trường Ngô Quyền, Hải Phòng), Văn Cao với “Buồn tàn thu” thì Xuân Oanh lại bắt đầu bằng giai điệu tưởng nhớ Hai Bà Trưng bên dòng Hát giang. Cả 3 chàng “Ngự lâm âm nhạc” này đều do nhiều hoàn cảnh mà phải “bật lên” Hà Nội tiếp tục mưu sinh.

Ở kinh thành nghìn năm văn hiến, họ được đồng chí Vũ Quý đưa vào tổ chức của Việt Minh. Khi “Tiến quân ca” (Văn Cao), “Diệt phát xít” (Nguyễn Đình Thi) dội bom phá tan dinh lũy thực dân, dứt tung xiềng xích nô lệ của dân tộc, thì Xuân Oanh bằng cảm hứng, xuất thần ngay trong ngày lịch sử 19-8-1945 khởi nghĩa ở Hà Nội mở ra cao trào Tổng khởi nghĩa toàn quốc-đã là tiếng nổ hân hoan của toàn dân tộc đón chào cuộc đời tự do. Đấy là hạnh phúc mang tựa đề độc đáo “Mười chín tháng Tám”. Một bản hành khúc ngắn với lời ca chỉ gồm 102 chữ nhưng nó là một bản tốc ký bằng âm nhạc, là một bài hát được viết nhanh nhất và đặc biệt nhất trong lịch sử tân nhạc Việt Nam. Chiều 19-8-1945, trong niềm hân hoan sau khi hoàn thành việc giành chính quyền ở Hà Nội, Xuân Oanh mới có dịp ký âm bản hành khúc trên vỏ bao thuốc lá, mang đến xưởng in của người bạn ở chợ Hôm. Ngay lập tức, bản hành khúc được khắc gỗ và in ra như truyền đơn rải khắp phố phường Hà Nội. Cả Hà Nội đã hát “Mười chín tháng Tám” xuyên đêm hôm ấy và in mãi vào lòng từng người dân Việt qua các thế hệ như một bản khai sinh cho cuộc đời mới của đất nước.

Mang trong tâm hồn sự thăng hoa từ một kẻ nô lệ bay lên chân trời tự do, Xuân Oanh cũng như toàn dân tộc đã có những năm tháng phi thường. Nhờ vốn tiếng Anh tự học từ ngày bán giày ở Tràng Tiền, ông được Đài Tiếng nói Việt Nam mời đọc bản "Tuyên ngôn Độc lập" bằng tiếng Anh và các bản tin tiếng Anh, làm công tác thông tin tuyên truyền ở Mặt trận Việt Minh. Toàn quốc kháng chiến, Xuân Oanh làm trong Ban Dân quân khu XI (Hà Nội-Hà Đông-Sơn Tây), rồi Văn phòng Tổng bộ Việt Minh. Đến năm 1948, ông lên chiến khu làm Báo Cứu quốc cùng Nam Cao, Tô Hoài. Nhờ tài kẻ vẽ, ngoài việc làm biên tập, ông còn tham gia trình bày báo cùng họa sĩ Trần Đình Thọ và tất nhiên, vẫn viết những bài hát mới như: “Đời văn hóa”, “Cây súng bạn đường”..., đặc biệt là “Quê hương anh bộ đội”. Bài hát đã được in ngay trên Báo Cứu quốc.

Ngược lại với không khí hừng hực ngày khởi nghĩa ở “Mười chín tháng Tám”, “Quê hương anh bộ đội” lại là một giai điệu trữ tình về quê hương của những người nông dân áo lính. Giai điệu đẹp đẽ đến vàng óng như nắng quê làng người chiến binh: "Nơi ấy có con đường tắm nắng vàng tươi, bờ tre nhà gianh vách mới/ Nơi ấy có cánh đồng mênh mông ngát hương, mùa lúa chín tiếng hát vang khắp đường". Ánh nắng len lỏi qua mái rạ, hàng cây vào trong căn nhà đơn sơ ấm êm: "Nhà anh có đàn em mắt ngây thơ má hồng/ Những chiều ngồi hát vui trên đường quê, em bé dắt trâu về". Ánh nắng chuyển dần về hoàng hôn rồi dìu dịu ánh trăng lên như lời tâm tình của thanh bình: "Gia đình làng mạc yên ấm tăng gia cày cấy, cuộc đời thanh bình/ Nhà anh hai nếp vừa xinh/ Đêm trăng lên cao rọi chiếu xuống mặt sân góc vườn/ Ngồi nghe tiếng hát vang lên từ xóm giếng làng bên"... Từ tả cảnh, chuyển dần sang tả tình, giai điệu càng da diết sau một đảo phách nhẹ nhàng. Không lên gân, từ nỗi nhớ thẳm sâu, lảng bảng như sương khói, bài hát khép lại như giấc mơ ngày trở về: "Nơi ấy nay vẫn còn ánh nắng thắm tươi/ Vẫn chờ ngày về chiến thắng".

“Quê hương anh bộ đội” đã loang ra vùng tự do cả nước và được nhiều người mến mộ hát thầm trong vùng tạm bị chiếm. Đây có thể là một bài hát hiếm hoi nói về người chiến binh nhưng dịu dàng, không có tiếng ùng oàng của đạn bom. Khát vọng hòa bình đã choán ngợp hiện thực bi thương, chỉ nghe thấy tiếng thơ rất nhẹ của niềm xa vắng. Trong kháng chiến, bộ 3 “Ngự lâm âm nhạc” thuở nào, đã đi đến đỉnh cao của riêng mình bằng tài năng và tầm nhận biết của chính mình. Nguyễn Đình Thi là “Người Hà Nội”, Văn Cao là “Trường ca sông Lô”, còn Xuân Oanh là “Quê hương anh bộ đội”. 

Chính những ngày thanh xuân lai láng ấy, Xuân Oanh gặp lại người yêu Xuân Uyên trên chiến khu. Trước đó, cùng nhau tham gia khởi nghĩa, nhưng khi kháng chiến toàn quốc, người lên chiến khu, người ở lại hoạt động trong lòng địch, Xuân Uyên bị địch bắt giam tại Tràng Tiền, rồi Hỏa Lò mãi tới năm 1950 mới được cứu thoát lên chiến khu. Và cặp song Xuân với mối tình như tiểu thuyết tạo nên một gia đình đầm ấm giữa chiến tranh khốc liệt. Cũng thời điểm ấy, Xuân Oanh do yêu cầu của cách mạng đã rẽ hẳn vào cuộc đời của một người làm công tác ngoại giao nhân dân mà khởi sự là Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của Việt Nam do bác sĩ Lê Đình Thám phụ trách. Với nhiệm vụ này, Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của Việt Nam đã góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc Việt Nam.

leftcenterrightdel

 Nhạc sĩ Xuân Oanh (1923-2010). Ảnh tư liệu

Sau khi Hiệp định Geneve được ký kết, Xuân Oanh được cử biệt phái sang Quân đội, tham gia phái đoàn 4 bên. Những ngày làm công tác giám sát thi hành hiệp định ở Đà Nẵng, nghe tin qua Đài Tiếng nói Việt Nam đường tàu lửa Hà Nội-Mục Nam Quan đã nối thông thành đường tàu liên vận quốc tế qua Trung Quốc, sang Liên Xô. Quá cảm xúc với thành công của công trình chiến lược này, Xuân Oanh đã bật ra trong hứng khởi một bản hành khúc rộn ràng mang tên “Hà Nội-Bắc Kinh-Mạc Tư Khoa”. Có lẽ đây là bài hát duy nhất về một sự kiện lớn lao đầu hòa bình ở miền Bắc. Có đường tàu liên vận này, đất nước nhận được biết bao giúp đỡ của anh em các nước xã hội chủ nghĩa và yêu chuộng hòa bình trên thế giới...

Với năng khiếu ngoại ngữ bẩm sinh, Xuân Oanh không chỉ sử dụng rất thành thạo tiếng Anh, tiếng Pháp, mà ông còn nói và viết tốt tiếng Nga, Trung Quốc, Đức, Tây Ban Nha... Ông từng đọc diễn văn bằng tiếng Nhật trong một hội nghị diễn ra tại Nhật Bản vào năm 1976. Với bút danh Anh Thư, ông dịch hàng chục cuốn tiểu thuyết của các nhà văn nổi tiếng, như: Mark Twain, Jeffrey Archer... và ấn tượng là tác phẩm “Trần trụi giữa bầy sói”, "Hai số phận"... Nhưng âm nhạc vẫn là nỗi ám ảnh không nguôi trong tâm hồn Xuân Oanh. Từ ngày nghỉ hưu, Xuân Oanh như sống lại dữ dội bản chất nghệ sĩ trong ông. Ông vẽ, làm thơ, dịch truyện và viết nhạc không ngơi nghỉ. Ông phổ thơ Nguyễn Thị Hồng ("Gọi thu", "Em ra đi"), thơ Đoàn Ngọc Thu ("Anh có còn yêu em như ngày xưa")... và đặc biệt là "Hoa nhài" (thơ Lê Kim Giao) như dành tặng riêng cho bà Xuân Uyên-người vợ Hà Nội yêu hoa nhài và có cuộc sống thơm hương như hoa nhài...

Đầu những năm 2000, tôi làm việc ở 59 Tràng Thi (Hà Nội) nên được gần gũi ông, được sống cùng ông trong không gian thuộc khu tập thể cạnh Đài Tiếng nói Việt Nam phố Quán Sứ (Hà Nội). Được Xuân Oanh coi là bạn vong niên nên khi nào rảnh rang, tôi lại chạy sang uống rượu với ông. Có gì hay, tôi cũng mang sang tặng ông. Ông cũng thế. Khi thì cho tôi một DVD của một nghệ sĩ piano hiện đại, khi thì một cái bát đựng hoa bằng pha lê. Tôi và ông cứ thế nâng ly, cứ thế trải lòng mọi chuyện. Càng chia sẻ với ông, tôi mới thấy hết sự lớn lao của một tài năng ẩn chứa trong vẻ bề ngoài giản dị. Giống như Văn Cao và Nguyễn Đình Thi, Xuân Oanh cũng rất đa tài. Ở căn buồng-hầm rượu chật chội thế, ông vẫn thu xếp được một góc riêng để vung cây cọ vào thế giới của màu sắc và đường nét. Cách vung cọ với lượng màu dầu hằn khối biểu hiện sự kiên định như bản tính của ông. Tranh của Xuân Oanh luôn tươi tắn một màu sống lạc quan khi đã tận hiểu mọi đắng cay trong cuộc đời. Ông cứ sống, sáng tạo cho đến những tháng cuối đời từ “Oanh liệt xưa tới Oanh "liệt" nay” như ông thường đùa với các y sĩ, bác sĩ bệnh viện. Ông vẫn có một sinh nhật cuối cùng đẹp đẽ ngày 4-1-2010, vẫn đón Tết Canh Dần-Tết bước vào “Nghìn năm Thăng Long” như bản nhạc valse “Hà Nội-Hà Nội” mà ông đã trải lòng: “Mỗi phút đi xa-lại muốn có trong ta-mỗi bóng dáng Hà Nội”.

Tôi viết những dòng này vào đúng dịp kỷ niệm tròn 100 năm ngày sinh của Xuân Oanh. Cũng như người bạn Văn Cao thân thiết, các ông đã sống, đã sáng tạo, đã tận hiến để lại một gia sản dựng nên những cột mốc sừng sững trong lịch sử âm nhạc Việt Nam hiện đại và bước vào bất tử.

Nhạc sĩ NGUYỄN THỤY KHA