Anh bảo, đang thai nghén một tác phẩm văn học dài hơi về đất và người Hương Sơn. “Mình có nhiều kỷ niệm với vùng đất ấy nhưng lâu rồi chưa trở lại. Mọi thứ bây giờ chắc đã khác xưa rất nhiều. Mình phải nắm lại thông tin để không bị lạc hậu.”-anh nói.
Cái thời nhà văn Sương Nguyệt Minh đi ca nô từ Bến Thủy ngược sông La, đến bến Tam Soa, qua phà Linh Cảm để vào đất Hương Sơn, tính đến khi anh hỏi tôi về chuyện quê, cũng đã ngót nghét chục năm. Nghĩa là đến nay, kỷ niệm của tác giả “Người về bến sông Châu” với đất và người Hương Sơn cũng đã mười mấy năm rồi. Chắc chắn mọi thứ đã thay đổi nhiều, rất nhiều. Đến như tôi, mỗi lần về nơi cắt rốn chôn nhau còn ngỡ ngàng trước sự thay đổi, huống là anh!
Đường bê tông nông thôn khang trang ở xã Sơn Trà, huyện Hương Sơn.
Xuân này tôi về chốn cũ. Ra cổng sân bay Vinh, tôi lên một chiếc tắc-xi rồi bảo anh lái xe chở về bến xe Vinh để mua vé xe khách ngược Hương Sơn. Tài xế liến thoắng: “Bác ra bến xe mần chi? Ngay điểm giao phía trước đường vô sân bay có cái trạm xe buýt chạy tuyến Vinh-Hương Sơn. Em chở bác ra đó rồi quay vô kiếm thêm cuốc nữa”. Tiện quá! Lâu nay cứ nghĩ, phương tiện xe buýt chỉ có ở các đô thị, còn những nơi từng được coi là “thâm sơn cùng cốc” như quê tôi thì có nằm mơ cũng chả thấy. Vậy mà bây giờ có thật. Phương tiện mới, máy lạnh êm ru, cứ 15 phút một chuyến. Lên xe buýt gọi điện về dặn mẹ già nấu cơm, vậy mà khi về đến nhà, nồi cơm mẹ nấu chưa kịp chín tới. Giao thông thuận tiện thế, chả trách những vùng đồi hoang đầy sắc tím sim, mua chạy dọc chân núi Mồng Gà, nơi lưu dấu trọn vẹn ký ức tuổi thơ và thời trai trẻ của tôi, giờ nhà cửa san sát như là những dãy phố. Quốc lộ 8A từ Hồng Lĩnh lên Hương Sơn, qua Cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo sang nước bạn Lào, chả khác gì một tuyến cao tốc hiện đại nối đô thị, đồng bằng với Trường Sơn hùng vĩ. Hai bên đường, hàng quán, dịch vụ sầm uất. Đất mặt tiền giá cao ngất ngưởng, lên đến tiền tỷ một cái nền nhà.
Sáng sớm, tôi theo mẹ già 83 tuổi đi chợ, những mong nhặt nhạnh những hình ảnh ký ức một thời. Con đường dẫn đến mấy cái chợ quê: Choi, Gôi, Nầm, Mới, Rạp…, hồi tôi kể cho nhà văn Sương Nguyệt Minh làm tư liệu sáng tác, là đường đất, men theo đồng ruộng, xóm làng. Vào mùa đông, đường ngập ngụa bùn đất chả khác gì thửa ruộng bừa. Sáng tinh mơ đi chợ, đến tận chiều mới về đến nhà. Một người đi chợ, dăm bảy nhà hàng xóm gửi gắm nhờ mua hàng. Giờ đây, nhờ chương trình xây dựng nông thôn mới, đường thôn ngõ xóm bê tông hóa. Trước cổng chợ ô tô đỗ đầy bãi. Các khu chợ không còn cảnh nông dân ngồi chồm hỗm buôn thúng bán mẹt, mà được xây dựng thành những dãy ki ốt khang trang. Chợ Gôi bên kia sông Ngàn Phố vừa mọc lên một khu thương mại bề thế kiểu mô hình siêu thị. Dự án do Tập đoàn Sơn An từ Đồng Nai, ông chủ là người con của Hương Sơn, về quê đầu tư xây dựng kèm theo mấy dự án sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm cho nhiều lao động.
Cha tôi bảo, người quê tha phương làm ăn, giờ nhiều người giàu có lắm, nhất là lớp trẻ. Chả nói đâu xa, ngay ở làng ta, cô con gái 23 tuổi của gia đình ông Thành-bà Thanh, thuộc diện hộ có hoàn cảnh khó khăn, tuổi thơ ngụp lặn ở cánh đồng trũng dưới chân núi Mồng Gà mò cua, bắt ốc kiếm sống; 5 năm trước ra Hà Nội khởi nghiệp, giờ đã là nữ doanh nhân Tường An khá nổi tiếng trong lĩnh vực kinh doanh dược liệu. Ân nghĩa với quê hương, năm rồi cô về quê làm từ thiện, nghe đâu hỗ trợ người nghèo cả trăm triệu đồng.
Về làng, đến nhà ai cũng nghe những bậc cao niên bày tỏ lời khen đối với lớp trẻ. Họ đã năng động, chịu khó, nhanh nhạy với thời cuộc, tạo cơ hội làm ăn. Trong danh mục doanh nghiệp của tỉnh Hà Tĩnh, có nhiều cái tên ở làng, xã tôi. Người đi xa thành đạt, không quên ân nghĩa láng giềng. Họ trở về quê kêu gọi xúc tiến đầu tư, hỗ trợ kinh phí khôi phục các di tích lịch sử văn hóa, làm địa chỉ giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Dịp Tết vừa rồi cũng có mấy người kêu gọi doanh nghiệp từ Hà Nội, đem về hàng trăm suất quà tặng người nghèo ăn Tết. Nhà nào cũng có một cái Tết tươm tất, ấm cúng.
Tôi đến thăm ông chú Phạm Quang Đạt ở xã Sơn Bình. Chú tôi họ Phan nhưng do thời xưa, thân phụ của chú nghèo khổ phải đi ở, được chủ đối xử tử tế nên xin được mang họ của chủ để tri ân. Vì thế con cháu ông về sau đều mang họ Phạm. Đến nhà, thấy chú cùng vài người thợ mộc ở làng đang đóng áo quan. Chú chỉ vào mấy cục u nơi cổ họng, cười lạc quan rồi cất giọng khàn khàn:
- Chú bị ung thư vòm họng rồi, chả được mấy hơi nữa!
Tôi nắm tay chú, lo lắng:
- Chú phải đi bệnh viện ngay. Bệnh ung thư không chủ quan được.
Chú cười lớn hơn:
- Chú 71 tuổi rồi. Bệnh cũng đã nặng. Ngày xưa chiến đấu ở Thừa Thiên-Huế, cả tiểu đội trinh sát bị địch phục kích hy sinh hết. Chú bị thương nặng nhưng may mắn được giao liên cứu sống. Từ đó đến nay, chú đã sống thay cho mấy thằng bạn. Gần nửa thế kỷ qua, bọn nó sinh hoạt tiểu đội vắng mặt chú rồi. Giờ là lúc chú phải có mặt.
Thương binh Phạm Quang Đạt. Ảnh: Sơn Hoàng
Tôi không biết nói gì thêm. Trước ngưỡng cuộc ra đi bất tận mà chú an nhiên, thanh thản đến kỳ lạ. Tôi vào nhà hỏi chuyện mự (thím)-vợ chú. Mự tôi bảo, tính chú xưa nay thế. Mự và các em đòi đưa chú đi bệnh viện điều trị nhưng chú nhất định không chịu. Chú bảo, có cố gắng đến mấy thì cũng chỉ sống thêm một vài năm, chả để làm gì. Đã sống thì cho ra sống! Đổ công sức, tiền của vào để duy trì sự tồn tại của một cơ thể quặt quẹo, đau đớn thì chỉ làm khổ thân mình, khổ vợ con chứ ích gì. Chú tự cắt thuốc đông y để uống chứ không muốn đụng dao kéo.
Điều tiếc nuối nhất của chú là cho đến nay vẫn chưa tìm được cô giao liên Văn Thị Chữ, quê ở huyện Quảng Điền (tỉnh Thừa Thiên-Huế), ân nhân cứu mạng, chở che, đùm bọc chú trong những ngày trọng thương, thập tử nhất sinh. Ngày đó, hai người đã có một tình yêu thật đẹp. Khi chú được đơn vị đưa về bệnh viện điều trị, hai người mất liên lạc từ đó. Sau ngày đất nước thống nhất, chú đã hai lần trở lại chiến trường cũ tìm hài cốt đồng đội và tìm cô. Hài cốt đồng đội thì tìm thấy được vài bộ, nhưng thông tin về cô thì bóng chim tăm cá. Nghe đâu cô Chữ đã vào miền Nam mưu sinh từ mấy chục năm nay. Còn ở vùng nào thì không ai biết. Mự tôi là người rất sốt sắng lo cho chú đầy đủ mọi thứ trong những chuyến đi ấy. Tôi cũng đã viết bài đăng báo giúp chú tìm kiếm thông tin về cô, nhưng đến nay vẫn không có bất cứ hồi âm nào… “Chú nợ cô ấy cả cuộc đời này! Nếu bây giờ có thông tin về cô ấy, cho dù ở chân trời góc biển nào chú cũng dành chút hơi sức còn lại để tìm gặp, để nói với cô ấy một lời cảm ơn và xin lỗi!”-chú tôi nói, rồi khóc! Mự tôi cũng khóc! Đây là lần đầu tiên và duy nhất trong những ngày ở quê, khi đến thăm chú, tôi thấy chú khóc!
Trong khoảng lặng cuối chiều, tôi rảo bộ đến Đền Cả, địa chỉ văn hóa tâm linh của người quê. Đền Cả thờ vị tướng Lý Nhật Quang, con thứ 8 của vua Lý Thái Tổ. Tương truyền, ông là tướng quân tài ba lỗi lạc, trong khi dẫn quân sĩ đi dẹp loạn thì qua đời ở vùng đất này. Người dân lập đền thờ ông dưới chân núi Mồng Gà (Kê Quan sơn). Suốt mấy chục năm trời kể từ sau cải cách ruộng đất, Đền Cả bị xuống cấp, hoang phế. Gần đây, một số doanh nhân tâm huyết với quê hương đã trở về đầu tư kinh phí trùng tu di tích. Đền Cả được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
Tôi vào đền thắp hương, không khỏi ngạc nhiên trước sự xuất hiện của một “dị vật” phía sau công trình thượng điện. Người ta mới xây dựng nên một thứ am chẳng ra am, chùa chẳng ra chùa, tháp không ra tháp. Đó chỉ là một khối bê tông khổng lồ vô tri, phía trên có mái cong như mái đình, xung quanh chạm trổ, khắc vẽ rồng, phượng và hình nhân loằng ngoằng, kiểu như một dạng bùa chú. Tại sao nơi chốn tôn nghiêm này lại xuất hiện một công trình lạ lẫm? Hỏi ra mới hay, “tác phẩm” này cũng là do mấy người đi xa thành đạt trở về quê tạo nên. Chẳng biết họ nghe tư vấn từ đâu mà cho rằng, dựng cái khối bê tông này lên để tạo phong thủy, trừ tà, làm ăn phát đạt.
Thế này thì hỏng! Di tích lịch sử văn hóa đâu phải là vườn nhà mà ai muốn dựng cái gì thì dựng. Trong đền, cơ man nào là nón lá, mô hình rồng, rắn… được treo tùm lum. Lại là chuyện người đi xa khi về lễ bái, mỗi người góp một “kỷ vật” cho đền. Cái tâm của người quê tốt lắm, nhưng cứ làm kiểu này, không bao lâu nữa di tích sẽ trở thành một quầy trưng bày đồ lưu niệm hổ lốn. Cơ quan quản lý di tích văn hóa của tỉnh ở xa không biết đã đành, còn cấp ủy, chính quyền địa phương, sao lại ứng xử với văn hóa một cách kỳ lạ vậy?
Tâm trạng đang lẫn lộn buồn vui thì tôi nhận được cuộc gọi của anh bạn Thiện Hoàng-nhà giáo ở Hà Nội:
- Tôi cũng đang ở quê, muốn xuống thăm ông mà không đi nổi. Làng tôi thành ốc đảo rồi. Trời mưa dầm dề khiến đường làng thành ruộng bừa, không chạy xe gắn máy được. Muốn ra khỏi làng chỉ còn cách đeo ủng lội bùn mấy cây số…
Tôi ngạc nhiên:
- Chả phải ông nói, làng Trà Sơn, xã Sơn Phúc quê ông vừa mới được đón nhận danh hiệu “làng văn hóa”?
Hoàng cười:
- Tôi chả hiểu người ta cấp danh hiệu “làng văn hóa” theo những tiêu chí nào. Con đường của làng từ Cồn Cày, Mụ Xếp đi Cồn Cao, Cừa Khâu… từ lúc tôi sinh ra thế nào thì nay vẫn vậy, thậm chí còn xuống cấp trầm trọng hơn. Tôi vừa mới góp cho làng ít tiền mua mấy xe đá dăm về rải đường để giảm lầy lội trong mùa mưa rét.
Vào mùa lụt hằng năm, làng Trà Sơn biến thành ốc đảo, bị cô lập hoàn toàn. Không hiểu sao một nơi như vậy mà lại được cấp chứng nhận “làng văn hóa”. Ngày đón nhận danh hiệu, nhiều người dân ngơ ngác hỏi nhau: “Văn hóa kiểu ni là kiểu chi hè”?
Lại là chuyện quan liêu, sính thành tích! Đời sống kinh tế-xã hội đã có những phát triển vượt bậc, nhưng văn hóa thì còn nhiều điểm nghẽn lắm, mà nghẽn nhất là trong tư duy văn hóa của chính những người làm văn hóa ở địa phương. Từ những điểm nghẽn ấy, nó sinh ra những “dị vật”, gây hại khôn lường. Chả trách ở mấy cái nhà văn hóa dọc Quốc lộ 8A, người ta thấy kim tiêm ma túy vứt chỏng chơ. “Cái chết trắng” đang tấn công vào đời sống dân cư ở những khu làng từng là nơi heo hút nhất. Liên tục những năm qua, nhiều đối tượng buôn bán ma túy đã bị tra còng. Mới hôm kỉa hôm kia, họ còn là những nông dân thật thà chất phác, chỉ qua mấy bữa đã là tội phạm bóc lịch trong tù...
Trời rét. Tôi đứng trước sân nhà gọi điện thoại cho nhà văn Sương Nguyệt Minh, hỏi anh về tác phẩm ngày nào. Anh bảo, đã viết được một phần nhưng chưa ưng ý nên bỏ rồi. “Anh sẽ phải vào đó ăn dầm nằm dề cả tháng mới viết được. Chỉ nghe chú kể, anh viết không có hồn. Nếu không có gì thay đổi, hè này anh sẽ vô”!
Hay quá! Tôi cũng định bảo anh, nếu chưa viết thì hãy thay đổi đi. Chuyện tôi kể cho anh ngày nào giờ đã cũ rồi!
PHAN TÙNG SƠN