Từ tấm giấy nền đến tranh nghệ thuật

Giữa cái nắng hè chói chang, tôi trò chuyện cùng chị Bảo Vi về chặng đường đồng hành với họa sĩ Phan Hải Bằng phát triển Trúc Chỉ. Giọng kể nhẹ nhàng của chị đưa tôi trở lại một chiều mùa hạ năm 2011, tại xưởng đồ họa Trường Đại học Nghệ thuật, Đại học Huế. Khi ấy, chị tình cờ bắt gặp những khung giấy ướt mà anh Bằng vừa hoàn thiện. Hơi nước bốc lên, ánh nắng xiên qua cửa sổ in bóng xuống bề mặt ướt, khiến hình ảnh ẩn hiện như một bức tranh chưa kịp khô. Nhớ lại khoảnh khắc ấy, chị Bảo Vi nói: “Tôi thấy tiềm năng khổng lồ trong điều anh Bằng đang làm”. Từ đó, hai con người chung niềm say mê đã cùng nhau đưa loại hình nghệ thuật này vươn xa.

leftcenterrightdel

Quy trình tạo tác Trúc Chỉ. Ảnh do nhân vật cung cấp

Từ năm 2000, họa sĩ Phan Hải Bằng đã ấp ủ ý định tự làm giấy vẽ mang dấu ấn cá nhân. Ban đầu, anh thử ninh nguyên liệu trên bếp củi, xay bột bằng... máy sinh tố của mẹ nhưng liên tiếp thất bại suốt gần một thập kỷ. Năm 2007, nhờ học bổng ASIAN Scholarship, anh có 6 tháng điền dã tại các làng giấy ở Việt Nam, Lào, Thái Lan. Thành thạo kỹ thuật làm giấy truyền thống, anh chợt nghĩ: “Tại sao phải làm giấy để in, khi có thể làm tranh ngay trong lúc làm giấy?”. Trở về Huế, anh dựng xưởng, xây lò, bắt đầu hành trình sáng tạo. Năm 2012, triển lãm những tác phẩm đầu tiên tại XQ Cổ Độ Huế (nay là Bảo tàng Nghệ thuật thêu XQ) đã gây ấn tượng mạnh. Nhà văn, dịch giả Bửu Ý khi đó thốt lên: “Tôi thấy một tinh thần Việt Nam rất lớn” và đặt tên cho loại giấy này là Trúc Chỉ-“Chỉ” là giấy, “Trúc” gợi sự thanh sạch, cương trực.

Quy trình sáng tạo độc đáo

Làm Trúc Chỉ gồm hai chặng. Chặng đầu là chế tác giấy thủ công. Nguyên liệu được chọn kỹ, chủ yếu là phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, bã mía, thân bắp khô, bèo, lá chuối, tre, nứa... Sau khi ninh, ngâm và rửa sạch, chúng trở thành sợi giấy, mỗi loại có đặc tính riêng: Sợi chuối mềm mại, sợi mía xốp nhẹ, sợi bèo rỗng thân, rơm và bắp thô ráp, tre già vàng ấm, tre non xanh tươi. Các sợi được nghiền nhưng vẫn giữ cấu trúc xơ, rồi đổ vào bể nước, “xeo” thành khung giấy nhờ áp lực nước kết nối chúng lại.

leftcenterrightdel

Trúc Chỉ được ứng dụng trang trí nội thất. Ảnh do nhân vật cung cấp

Chặng hai-đồ họa Trúc Chỉ-bắt đầu ngay khi khung giấy còn ướt. Người nghệ sĩ đặt bản thiết kế lên, dùng vòi nước “vẽ” từng chi tiết. Áp lực dòng nước khiến sợi xơ bện lại hoặc tan ra, tạo khối, khoảng đặc-rỗng. Một tác phẩm có thể hoàn thành trong một ngày, vài ngày, thậm chí vài tuần. Sau đó, tranh được phơi nắng từ 1 đến 2 ngày tùy độ dày, rồi đưa vào khung, hoàn tất quy trình.

Từ ngày khởi đầu, mỗi mùa hè, nhóm Trúc Chỉ rong ruổi thu gom bã mía, thân bắp khô, giữ lại rơm phơi khô thay vì đốt. Nguyên liệu hoàn toàn tự nhiên, không hóa chất, chỉ cần nước sạch, nắng và gió. Mỗi tác phẩm vừa là sản phẩm nghệ thuật, vừa là thông điệp tái sinh của phụ phẩm nông nghiệp.

Trúc Chỉ khi trưng bày thường được chiếu sáng bằng đèn vàng ấm, tôn đường nét tinh tế, tạo cảm giác ấm cúng, bình yên. Vì vậy, Trúc Chỉ được ưa chuộng để trang trí nhà ở, chùa chiền, không gian tĩnh tại. Ngoài tranh, Trúc Chỉ còn được ứng dụng trong nội thất và đồ dùng: Đèn, ô, quạt, nón lá, trang phục... với họa tiết từ trống đồng Đông Sơn, hoa văn thời Lý-Trần-Lê, Kinh thành Huế, chùa Thiên Mụ... Nhờ đó, di sản được “làm sống” trong đời sống đương đại. Nhóm cũng tạo việc làm cho nhiều bạn trẻ yêu nghề, rèn luyện sự kiên nhẫn và tập trung. Một chiếc quạt cần 3 ngày, một bức tranh vài tuần. Có người thợ trẻ khi vẽ nước lên giấy đã chậm rãi, hít thở sâu như hành thiền, bởi chỉ một thoáng lơ đãng, giấy có thể rách.

leftcenterrightdel
       

Tác phẩm "Mùa trăng" của nhóm Trúc Chỉ trên sân khấu đêm nhạc Lê Cát Trọng Lý tại Nhà hát Lớn TP Huế. Ảnh do nhân vật cung cấp 

Trúc Chỉ đã vượt ra ngoài biên giới. Năm 2017, tác phẩm "Golden Hue" với hình ảnh Ngọ Môn, Đại Nội Huế được chọn làm quà tặng Nhật hoàng Akihito khi thăm Việt Nam. Các triển lãm tại Pháp, Đức, Singapore... đều gây ngạc nhiên cho công chúng phương Tây vốn quen với mỹ học giấy thủ công.

Giữ lửa đam mê

Con đường không hẳn bằng phẳng, vẫn có hoài nghi, vẫn có sự chênh vênh giữa nghệ thuật-thủ công-sản phẩm du lịch. Nhưng nhóm sáng lập không chùn bước, chủ động chia sẻ kỹ thuật, tổ chức làm mẫu cho sinh viên và họa sĩ trẻ thực hành. Ước mơ của họ là xây dựng “vườn Trúc Chỉ mở rộng”-công viên nghệ thuật sống với hồ xử lý nguyên liệu, sân phơi, không gian thiền sáng, nơi bất kỳ ai cũng có thể sáng tạo và mang về tác phẩm riêng. Họ mong một ngày, trên bản đồ nghệ thuật giấy thế giới, cái tên Trúc Chỉ sẽ được nhắc đến như một sáng tạo Việt mang hồn xơ sợi quê hương.

HẠ ANH