QĐND - Từng đặt chân lên mảnh đất Hà Giang, không chỉ riêng tôi, mà rất nhiều người vẫn đau đáu một câu hỏi: Vì sao mảnh đất địa đầu Tổ quốc có bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa, đồng bào các dân tộc tảo tần, chịu thương chịu khó mà nơi đây, cái nghèo vẫn dai dẳng? Cùng suy tư ấy, khi trò chuyện với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, TS. Triệu Tài Vinh, 42 tuổi, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang đã hơn một lần khẳng định: Khát vọng thoát nghèo là động lực lớn nhất để Hà Giang phát triển.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là số 1
Phóng viên (PV): Theo ông, Hà Giang hiện nay đang đứng trước những vận hội và thử thách gì?
TS. Triệu Tài Vinh: Hà Giang vừa tổ chức thành công đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010-2015. Đại hội đã nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và được nhân dân địa phương rất đồng tình, ủng hộ. Chung sức, đồng lòng để huy động mọi nguồn lực, tranh thủ mọi thời cơ, quyết tâm biến khó khăn thành thuận lợi, vượt khó, giảm nghèo là điểm hội tụ đồng thuận lớn nhất và cũng là kỳ vọng mà Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hà Giang nỗ lực kiên trì thực hiện bằng được trong những năm tới.
Tuy nhiên, Hà Giang hiện nay vẫn là một trong những tỉnh nghèo nhất nước. Điều kiện địa hình, khí hậu khắc nghiệt, cơ sở hạ tầng giao thông chưa phát triển đồng bộ, nội lực kinh tế của tỉnh còn yếu, chất lượng phát triển ở mức rất thấp là những thử thách lớn mà Hà Giang phải vượt qua.
 |
Nét đẹp thị trấn Đồng Văn trên Cao nguyên đá Đồng Văn. Ảnh: THIỆN VĂN |
PV: Để đẩy lùi thử thách này, Đảng bộ tỉnh Hà Giang đã tìm ra những khâu đột phá gì, thưa ông?
TS. Triệu Tài Vinh: Đại hội Đảng bộ tỉnh mới đây đã xác định 8 giải pháp đột phá để từng bước đưa Hà Giang thoát nghèo. Các giải pháp đó là: xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông; sản xuất hàng hóa tập trung gắn với chế biến; phát triển công nghiệp thế mạnh; phát triển thị trường gắn với xây dựng cơ sở dịch vụ, du lịch; xây dựng nông thôn mới gắn với quy tụ dân cư và phát triển đô thị; ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ vào sản xuất, đời sống; phát triển, nâng cao nguồn nhân lực, đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm; nâng cao năng lực, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và vai trò tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
PV: Ngoài việc chăm lo đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực như một trong 8 giải pháp đột phá mà Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra, Hà Giang đã nghĩ đến việc “trải thảm đỏ” để mời gọi các nhà đầu tư, các nhân tài, người có trình độ học vấn cao ở các nơi về địa phương công tác?
TS. Triệu Tài Vinh: Chúng tôi đã nghĩ, đã làm việc này cũng khá lâu rồi và bước đầu đã kêu gọi, thu hút được một số các nhà đầu tư lên Hà Giang khai thác khoáng sản, xây dựng, kinh doanh sản xuất, đóng góp đáng kể vào sự phát triển của tỉnh.
PV: Nhưng dường như hiệu quả chưa đạt được như mong muốn?
TS. Triệu Tài Vinh: Thực tế đúng như vậy! Điều đó do hai lẽ, thứ nhất là cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện thiếu đồng bộ, chưa triệt để. Thứ hai, cũng xuất phát từ điều kiện kinh tế còn nghèo nên Hà Giang chưa hấp dẫn, chưa mời gọi được nhiều doanh nhân, nhân tài về địa phương công tác. Sau khi rút kinh nghiệm, tới đây, với chính sách thu hút đầu tư, thu hút nhân tài một cách hợp lý và triển khai đến nơi đến chốn, tôi hy vọng Hà Giang sẽ có chuyển biến trong việc “trải thảm đỏ” này. Vì tôi nghĩ, muốn Hà Giang nhanh chóng thoát nghèo, nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó có các nhân tài từ địa phương khác, sẽ là yếu tố quyết định hàng đầu.
Đánh thức tiềm năng di sản Cao nguyên đá
PV: Tôi nghĩ rằng, chính từ điều kiện địa hình, khí hậu rất đặc thù, Hà Giang cũng hé mở một số tiềm năng và triển vọng phát triển. Theo ông, tiềm năng đó có gì khác so với các tỉnh miền núi phía Bắc?
TS. Triệu Tài Vinh: Theo tôi, tiềm năng được đánh giá ở nhiều khía cạnh, phương diện và trên từng lĩnh vực tùy thuộc vào cách nhìn nhận của mỗi người. Song người Hà Giang chúng tôi cùng chung một quan điểm là “Biến khó khăn thành cơ hội phát triển”. Tiềm năng của tỉnh hiện nay và trong tương lai chính là biết tận dụng, khai thác và phát huy những giá trị văn hóa, di sản, du lịch của khu vực Cao nguyên đá Đồng Văn (gồm 4 huyện phía Bắc của tỉnh là Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc và Đồng Văn). Bên cạnh đó, tiềm năng năng suất cây trồng, tiềm năng đất phục vụ phát triển lâm nghiệp cũng là những lợi thế để tỉnh chú ý khai thác trong những năm tới.
PV: Thật tự hào cho Hà Giang khi Cao nguyên đá Đồng Văn vừa được UNESCO vinh danh là Di sản địa chất thế giới. Vậy, tỉnh sẽ làm gì, làm như thế nào để khai thác, phát huy giá trị di sản đặc biệt này?
TS. Triệu Tài Vinh: Trước mắt, chúng tôi triển khai thực hiện công tác quy hoạch phát triển không gian du lịch, không gian sinh tồn gắn liền với quá trình xây dựng nông thôn mới. Cùng với đó, các cấp ủy và chính quyền địa phương, nhất là cấp cơ sở sẽ quan tâm chú trọng làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức, nhận thức của người dân trong việc tham gia giữ gìn, bảo vệ các giá trị di sản, văn hóa trên vùng Cao nguyên đá.
Tới đây, UBND tỉnh sẽ tổ chức các hội nghị tư vấn để phát triển du lịch “Cao nguyên đá” nhằm quảng bá hình ảnh về mảnh đất, văn hóa, con người trên địa bàn này, qua đó góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp để nâng cao hiệu quả ngành kinh tế du lịch địa phương. Tôi muốn nhấn mạnh thêm: Cao nguyên đá Đồng Văn có rất nhiều lợi thế về phát triển du lịch. Vì vậy, Hà Giang hy vọng các doanh nghiệp du lịch của Việt Nam sẽ đến khai thác và xây dựng thêm nhiều tour hành trình mới về địa danh có nhiều cảnh quan đá kỳ thú, hùng vĩ bậc nhất nước ta.
PV: Ông có nghĩ rằng, giá trị du lịch Hà Giang, trong đó có Cao nguyên đá Đồng Văn, sẽ giảm đi rất nhiều nếu tỉnh không chú trọng giữ gìn, bảo tồn những truyền thống văn hóa đặc sắc của 22 dân tộc anh em trên địa bàn tỉnh?
TS. Triệu Tài Vinh: Tôi không chỉ nghĩ, mà còn rất nhiều suy tư nữa. Vì là một người con của dân tộc Dao, tôi biết rằng mình và các cơ quan chức năng của tỉnh cũng không thể đứng ngoài cuộc với nhiệm vụ bảo tồn, gìn giữ những nét đẹp tinh túy từ truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán, nghi lễ mà bao thế hệ đồng bào các dân tộc Mông, Tày, Dao, Lô Lô, Dáy, Pà Thẻn... trên mảnh đất địa đầu Tổ quốc đã bền bỉ ươm trồng, vun đắp từ hàng nghìn năm qua.
Từ nhận thức đó, tỉnh đã và đang thành lập các làng văn hóa gắn với du lịch để giới thiệu, quảng bá với du khách trong và ngoài nước những bản sắc văn hóa tiêu biểu của đồng bào các dân tộc trong tỉnh. Mặt khác, Hà Giang rất quan tâm phát huy vai trò của các già làng, người có uy tín trong dòng họ, nghệ nhân dân gian trong việc lưu giữ, truyền dạy và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Tỉnh cũng vừa có chủ trương thành lập trường văn hóa nghệ thuật để làm cái nôi nuôi dưỡng, đào tạo các hạt nhân văn nghệ, nguồn nhân lực văn hóa cho 22 dân tộc trong tỉnh, đồng thời, làm “bà đỡ” cho các hoạt động bảo tồn, lưu truyền và biểu diễn những nét đẹp văn hóa độc đáo của địa phương.
“Nói gì, làm gì”
PV: Cách đây mấy năm lên huyện Hoàng Su Phì công tác, tôi được nghe một số người dân kể về việc ông rất chịu khó đi cơ sở, tự tay cuốc đất, gieo ngô, ươm cây... để trực tiếp hướng dẫn bà con dân tộc cách thức làm ăn mới khi ông đang là Chủ tịch UBND huyện này. Đây là sự thật hay là những lời thêu dệt dành cho “cán bộ to” của huyện, thưa ông?
TS. Triệu Tài Vinh: Là một người con của dân tộc, sinh ra và lớn lên từ núi rừng nên đối với tôi, công việc nhà nông không có gì xa lạ. Vả lại, tôi học và bảo vệ luận án về chuyên ngành nông nghiệp, vì vậy, tôi không muốn lời nói của mình chỉ có giá trị ở... trên giấy. Có tăng cường đi cơ sở, tôi mới hiểu người dân bản địa “nói gì, cần gì” và mình phải “nói gì, làm gì”. Hơn thế, có trực tiếp gặp gỡ và lao động với bà con, tôi cảm thấy mình sống đúng mình hơn, có phương pháp làm việc sát thực tế hơn.
PV: Vậy điều trăn trở nhất của người “đứng mũi chịu sào” ở một tỉnh thuộc diện nghèo nhất nước hiện nay là gì?
TS. Triệu Tài Vinh: Đó là làm sao để rút ngắn khoảng cách giữa lời nói với việc làm. Là cán bộ trưởng thành từ cơ sở và bây giờ ở cương vị lãnh đạo tỉnh, tôi rất “sợ” những người nói nhiều làm ít, nói hay làm dở và cũng “kỵ” những người nói một đằng làm một nẻo, hay những người nói mà không chịu làm.
PV: Và đối với Hà Giang, nếu giải quyết được trăn trở này thì khát vọng thoát nghèo của địa phương sớm trở thành hiện thực?
TS. Triệu Tài Vinh: Tôi nghĩ, người lãnh đạo ở một địa phương càng nhiều khó khăn thì càng phải gắn chặt giữa lời nói với việc làm, và rất nên nói ít, làm nhiều và nói đúng mức, làm kiên quyết và có hiệu quả thiết thực.
PV: Cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này!
NGUYỄN VĂN HẢI thực hiện