Sau khi phát hiện cao nguyên Langbiang vào năm 1893, người Pháp quyết định xây dựng Đà Lạt trở thành đô thị nghỉ dưỡng kiểu châu Âu tại Đông Dương. Bên cạnh các vấn đề về giao thông, quy hoạch, xây dựng, dân cư... thì điện và nước là hai yếu tố được nhà cầm quyền đặc biệt quan tâm. Để có nguồn nước phục vụ sinh hoạt và tạo cảnh quan cho thành phố, người Pháp đã cho ngăn hàng loạt dòng suối để tạo thành các hồ như: Xuân Hương, Đa Thiện, Mê Linh, Vạn Kiếp… Riêng nguồn điện thì giai đoạn đầu, Đà Lạt vẫn phụ thuộc vào các máy phát chạy bằng dầu diesel. Năm 1942, Toàn quyền Pháp tại Đông Dương là Jean
Decoux ra lệnh xây dựng một nhà máy thủy điện dưới chân thác Ankroet. Đây là ngọn thác nằm trên dòng sông Đa Dung (còn gọi là Suối Vàng), khởi nguồn từ núi Langbiang cao 2.167m, sau đó đổ vào hệ thống sông Đồng Nai.
    |
 |
Nhà máy Thủy điện Ankroet. |
Để xây dựng nhà máy, những kỹ sư người Pháp cùng hàng trăm phu phen người Việt đã được huy động tới công trường. Tại đây, họ bắt đầu mở đường, chặt cây, chẻ đá, đào hầm và xây dựng hai đập nước cùng nhà máy phát điện. Theo thiết kế, đập Ankroet là đập tự tràn xây bằng đá chẻ dài gần 100m, cao 10m, dung tích hồ chứa hơn 1 triệu mét khối nước, nguyên liệu đá chẻ xây đập được khai thác ngay tại dòng sông Đa Dung. Cửa nhận nước và đường hầm xuyên núi dài 536m, đường kính 1,65m và có giếng thủy áp cuối đường hầm cao 44m (đường kính 4m). Đường ống thủy lực nối xuống nhà máy bằng thép dài 160m. Nhà máy lắp đặt hai tổ máy, mỗi máy công suất 300kW, tua bin hiệu BELL, máy phát hiệu CEM-LEHAVRE do Mỹ sản xuất. Khác với những nhà máy thủy điện sau này, các tua bin nằm sâu dưới lòng đất với trục dọc thì tại Nhà máy Thủy điện Ankroet, trục tua bin nằm ngang, cả khối máy nổi trên mặt đất.
Do quá trình xây dựng chủ yếu bằng sức người cùng công cụ thô sơ nên công việc của phu phen vô cùng vất vả. Bên cạnh đó, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và sự áp bức, đối xử tàn tệ của bọn cai Pháp đã khiến hàng chục phu phen phải bỏ mạng vì tai nạn, ốm đau, dịch bệnh. Ngày nay, dưới tán rừng quanh nhà máy vẫn còn nhiều nấm mồ vô danh của những người thợ đã ngã xuống khi tham gia xây dựng công trình.
Sau 3 năm xây dựng, năm 1946, Nhà máy Thủy điện Ankroet chính thức hoàn thành và cung cấp cơ bản nhu cầu điện cho các công sở, biệt thự ở Đà Lạt. Năm 1962, khi xây dựng Nhà máy Thủy điện Đa Nhim, các kỹ sư đã lắp thêm tổ máy, nâng công suất của Nhà máy Thủy điện Ankroet lên 3.100kW để phục vụ nhu cầu xây dựng Nhà máy Thủy điện Đa Nhim. Năm 1964, Nhà máy Thủy điện Đa Nhim hoàn thành với công suất 160MW, đủ cung cấp điện cho một nửa miền Nam khi ấy. Năm 2004, nhà máy tiếp tục được nâng cấp với 3 tổ máy mới, công suất 4.400kW. Tuy nhiên, tổ máy đầu tiên hiện vẫn được nhà máy lưu giữ và trưng bày như một hiện vật lịch sử.
Trải qua 76 năm kể từ khi xây dựng, ngoài những tổ máy đã được thay thế thì hầu hết các hạng mục của công trình vẫn vẹn nguyên như thuở ban đầu. Những công nhân tham gia làm việc trong nhà máy thời gian đầu giờ đã thành “người thiên cổ” nhưng con cháu họ vẫn tiếp bước cha ông. Điển hình như anh Nguyễn Văn Thuận, Trưởng ca vận hành, có bố là ông Nguyễn Thương từng làm phu xây dựng nhà máy thủy điện từ những ngày đầu và gắn bó với Ankroet cho đến lúc nghỉ hưu vào năm 1985. Sau khi bố nghỉ, anh Thuận tiếp tục trở thành công nhân nhà máy. Có lần cơ quan chuyển anh Thuận đi công tác nơi khác nhưng được một thời gian, anh xin quay lại bởi với anh, ký ức về nhà máy đã quá đậm sâu nên chẳng thể rời xa.
Một trong những yếu tố làm nên sức hấp dẫn của nhà máy là cảnh quan và kiến trúc. Nhà máy được xây dựng tựa như một lâu đài cổ châu Âu với mái ngói, tường đá xanh vừa vững chãi, vừa thanh thoát. Xung quanh nhà máy là rừng thông cổ thụ ngút ngàn, con đường dốc dẫn vào nhà máy quanh co như dải lụa với một bên là núi cao, một bên là vực sâu và dòng suối trong vắt rì rầm chảy suốt ngày đêm. Cách đó không xa, đập nước hình cánh cung tựa vầng trăng vắt qua đôi bờ sông Đa Dung được xây bởi hàng triệu viên đá chẻ có kích cỡ đều tăm tắp. Trải qua năm tháng, bờ đập đã phủ xanh rêu nhưng vẫn vững chắc.
So với các nhà máy thủy điện khác tại Việt Nam, quy mô, công suất của Nhà máy Thủy điện Ankroet khá khiêm tốn. Tuy nhiên, vai trò của nó lại rất quan trọng bởi công trình này đánh dấu sự bắt đầu của ngành thủy điện Việt Nam. Với ý nghĩa lịch sử, vẻ đẹp độc đáo cùng những ký ức chưa phai mờ, Nhà máy Thủy điện Ankroet chính là tài sản quý giá của ngành điện Việt Nam và là điểm tham quan hấp dẫn tại Đà Lạt.
Bài và ảnh: VŨ ĐÌNH ĐÔNG