Năm 1941, về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Bác đã làm đúng như thế. Tháng 5-1941, Bác triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, hội nghị quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:“Cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc”; xác định nhiệm vụ cách mạng giai đoạn này là “đánh đuổi Pháp - Nhật, làm cho xứ Đông Dương độc lập”. Để thực hiện đường lối, nhiều biện pháp về tư tưởng, chính trị và tổ chức được hội nghị đề ra để động viên mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân, hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh.

Ngày 19-5-1941, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh chính thức ra đời. Cùng với Tuyên ngôn là bản Chương trình do Bác khởi thảo, nhằm thực hiện hai mục tiêu lớn: “1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, 2. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do”. Bác còn soạn Mười chính sách của Việt Minh bằng thể thơ lục bát để quần chúng dễ thuộc, dễ nhớ: Việt Nam độc lập đồng minh/Có bản chương trình đánh Nhật, đánh Tây/Quyết làm cho nước non này/Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền. Bác quyết định ra Báo Việt Nam độc lập. Mục đích của báo được nêu ngay ở số đầu tiên trên trang nhất: “Báo Việt Nam độc lậpcốt làm cho dân ta hết ngu hèn, biết các việc, biết đoàn kết, đặng đánh Tây, đánh Nhật, làm cho Việt Nam độc lập, bình đẳng, tự do”. Thời gian đầu, Bác vừa chỉ đạo trực tiếp vừa tham gia viết bài. Ngoài những bài tin tức bình luận, văn xuôi, kể chuyện, tranh vẽ còn có một số lượng 30 bài ca tuyên truyền, lên án tội ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật và bọn tay sai, kêu gọi các tầng lớp nhân dân ủng hộ Mặt trận Việt Minh, đoàn kết dân tộc, hăng hái tham gia các Hội: Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc, Phật giáo cứu quốc…

Tháng 7-1941, trước khi Báo Việt Nam độc lập ra đời, Bác đã viết bài ca Hoan nghênh thanh niên học quân sự theo thể lục bát. Mở đầu bài ca là một loạt câu hỏi: Vì ai tan cửa nát nhà/Chồng lìa vợ, con lìa cha tơi bời/Vì ai non nước rã rời/Giống nòi sỉ nhục chơi vơi thế này/Vì giặc Nhật, vì giặc Tây/Thanh niên ta phải thế này gay go. Từ đó Bác khuyên thanh niên, hoan nghênh thanh niên học quân sự: Muốn đánh Nhật, muốn đánh Tây/Thanh niên ta phải ra đây học hành/Một là học việc nhà binh/Hai là học biết tình hình nước ta.

Để cổ động và giới thiệu tờ báo Việt Nam độc lập, ngay số báo 101 đầu tiên ra ngày 1-8-1941, Bác đã cho đăng bài Khuyên đồng bào mua báo Việt Nam độc lập gồm 17 câu, theo thể song thất lục bát, nhấn mạnh tác dụng của tờ báo: Báo “Độc lập” hợp thời đệ nhất/Làm cho ta mở mắt mở tai/Cho ta biết đó biết đây/Ở trong việc nước, ở ngoài thế gian/Cho ta biết kết đoàn tổ chức/Cho ta hay sức lực của ta/Cho ta biết chuyện gần xa/Cho ta biết nước non ta là gì/Ai không chịu ngu si mù tối/Ắt phải xem báo ấy mới nên. Sau đó, Bác cho đăng bài Thơ đề tranh cổ động báo Việt Nam độc lập số 103, ra ngày 21-8-1941. Đây là lời kêu gọi khẩn thiết đoàn kết toàn dân để cùng nhau cứu nước, thực hiện mục tiêu của cách mạng: "Việt Nam độc lập" thổi kèn loa/Kêu gọi dân ta trẻ lẫn già/Đoàn kết vững bền như khối sắt/Để cùng nhau cứu nước Nam ta. Tiếp theo là các bài ca kêu gọi các tầng lớp nhân dân đoàn kết "đua nhau vào hội Việt Minh" để đánh Tây, đánh Nhật, cứu nước, cứu mình.

Bài thứ nhất: Ca dân cày. Đây là bài ca đầu tiên Bác ghi rõ là CaCa dân cày đăng ở số báo ra ngày 21-8-1941. Chất liệu của lời ca lấy từ thực tế dân cày đang chịu cảnh bất công: Suốt ngày chân bùn tay lấmthuế nặng sưu caokhông có ruộng càyphu dịch tuần phiênlàm chết xác, trong khi đó, mọi sản phẩm do dân cày làm ra đều lọt vào tay bọn bóc lột, đều lọt vào túi Tây. Sự bất công, nỗi bất bình phải được xóa bỏ, Bác chỉ rõ đường hướng, kêu gọi khẩn thiết: Muốn phá sạch nỗi bất bình/Dân cày phải kiếm Việt Minh mà vào/Để cùng toàn quốc đồng bào/Đánh Pháp, Nhật, gây phong trào tự do.

Bài thứ hai: Ca phụ nữ hiện diện ở số báo ra ngày 1-9-1941. Từ truyền thống phụ nữ anh hùng Bà Trưng, Bà Triệu, đến Nguyễn Thị Minh Khai của thời đại ngày nay, Bác nêu những tấm gương sáng: Việt Nam phụ nữ đời đờiLòng vàng gan sắt nào đà kém ai? Để đi đến cổ vũ, động viên: Bây giờ cơ hội đã gần/Đánh Tây, đánh Nhật, cứu dân cứu nhà/Chị em cả trẻ lẫn già/Cùng nhau đoàn kết để mà đấu tranh/Đua nhau vào hội Việt Minh/Trước giúp nước, sau giúp mình mới nên.

Bài thứ ba: Trẻ con. Điều bất ngờ, trong số các bài ca kêu gọi các tầng lớp đoàn kết cứu nước, Bác kêu gọi cả thiếu nhi, tùy theo sức của mình, cùng toàn dân cứu nước cứu nhà. Hai bài ca giàu chất thơ Trẻ con Báo Việt Nam độc lập số 21-9-1941 và Trẻ chăn trâu, số 21-11-1941, viết theo thể lục bát truyền thống. Với thiếu nhi, Bác không lấy đầu đề là Ca như các tầng lớp khác, mà trực tiếp kêu gọi, trực tiếp nói với đối tượng. Các cháu thiếu nhi đọc hiểu ngay và làm theo. Hai bài kêu gọi thiếu nhi xuất phát từ những điều mắt thấy, tai nghe, từ tình yêu thương sâu sắc, từ trách nhiệm lớn lao đối với con trẻ về cảnh cơ cực lầm than khi vận nước gian nan. Từ đó vạch trần tội ác của Nhật, Tây, bọn bóc lột và chỉ ra cho các em: Kẻ lớn cứu quốc đã đành/Trẻ em cũng phải ra giành một vai.

Bài thứ tư: Ca công nhân, in trong số báo ra ngày 11-10-1941. Đây là lời tâm sự của người trong cuộc - vốn từng là một công nhân thực thụ phụ bếp, đốt lò, quét tuyết, thợ ảnh, in ấn nên đã nhìn thấu sự bất công của giới chủ với công nhân. Không thể để tình cảnh này mãi như thế được, mà: Thợ thuyền ta phải đứng ra/Trước ta cứu nước, sau ta cứu mình.

Bài thứ năm: Ca binh lính, số báo ra ngày 1-11-1941 nhằm mục đích giác ngộ, vận động, kêu gọi binh lính -  những người Việt Nam đang phải đi lính cho Nhật, Pháp hãy quay súng đánh Tây, đánh Nhật, cứu dân: Trong tay đã sẵn súng này/Quyết quay đánh Nhật, đánh Tây mới đành/Tiếng thơm sẽ tạc sử xanh/“Việt binh cứu quốc” rạng danh muôn đời! (Báo ra ngày 1-11-1941)

Sang năm 1942, ngoài một số bài thơ như Cảnh rừng Pác Bó và đặc biệt là hai bài diễn ca dài Địa dư nước taLịch sử nước ta, Bác đã cho đăng tiếp trên báo Việt Nam độc lập một số bài ca:

Bài đầu tiên: Chúc năm mới. Đây là bài thơ chúc Tết, mừng Xuân đầu tiên của Bác. Năm mới 1942 đến trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến. Vui mừng trước tiền đồ của dân tộc, Bác đã chúc năm mới với những lời cổ động đầy hào khí: Chúc phe xâm lược sẽ diệt vong/Chúc phe dân chủ sẽ thắng lợi/Chúc đồng bào ta đoàn kết mau/Chúc Việt Minh ta càng tấn tới.

Bài thứ hai: Ca Đội tự vệ, không chỉ đấu tranh chính trị, mà còn chuẩn bị cho đấu tranh vũ trang. Bài ca Ca Đội tự vệ ra đời kịp thời để động viên các đội viên trong luyện tập và nâng cao tinh thần cách mạng đánh đuổi quân thù. Có điều đặc biệt là bài ca này để hát, theo lối hát đuổi, chia làm hai bè, sức lan tỏa những lời ca trực tiếp đến người nghe. Bài ca này đăng số 117, ngày 1-2-1942, toàn bài là những câu 3 chữ: Gươm dao ta/Đem mài đi/Mài cho bén/Mài cho sắc/Nhật ta đâm/Tây ta chặt/Sắp hàng ra/Xung phong lên/Người ta đông/Chí ta bền/Việc giải phóng/Nhất định nên.

Bài thứ ba: Ca sợi chỉ. Rất khéo léo, mượn hình ảnh sợi chỉ, dưới hình thức kể chuyện, sợi chỉ kể về đời mình từ cội nguồn là đóa hoa, đến cái bông, đến sợi chỉ và thành tấm vải mỹ miều để nói về việc, nếu biết tập hợp, biết đoàn kết thành một khối thống nhất sẽ tạo nên sức mạnh. Với Ca sợi chỉ, sợi chỉ thực sự có sức mạnh, thực sự bền vững khi những sợi dọc, sợi ngang hợp lại như lời kể: Nhờ tôi có lắm đồng bang/Họp nhau sợi dọc, sợi ngang rất nhiều/Dệt nên tấm vải mỹ miều/Đã bền hơn lụa, lại điều hơn da/Đố ai bứt xé cho ra/Đó là lực lượng, đó là vẻ vang/Hỡi ai con cháu Hồng Bàng/Chúng ta phải biết kết đoàn mau mau. Bài ca này Bác cho đăng số báo ngày 1-4-1942 đã có tác dụng sâu rộng trong quần chúng.

Bài thứ tư: Hòn đá, là bài thơ phụ đề minh họa cho bức tranh Hòn đá to được Bác vẽ bằng bút sắt đăng trên báo số ra ngày 21-4-1942. Bài ca rút ra một kết luận: Hòn đá to /Hòn đá nặng/Nhiều người nhắc/Nhắc lên đặng/Biết đồng sức/Biết đồng lòng/Việc gì khó/Cũng làm xong. Từ đó liên hệ đến mục tiêu của cách mạng mà toàn dân đang chuẩn bị tiến hành: Đánh Pháp, Nhật/Giành tự do/Là việt khó/Là việc to/Nếu chúng ta/Biết đồng lòng/Thì việc đó/Quyết thành công.

Bài thứ năm: Con cáo và tổ ong, mượn hình thức ngụ ngôn truyền thống, bài ca Con cáo vào tổ ong là sự liên tưởng, so sánh, thử so bì giữa ong và người. Đàn ong còn biết yêu giống, yêu nòiĐồng tâm, hợp lực đuổi loài cáo đi, huống chi là người: Bây giờ ta thử so bì/Ong còn đoàn kết, huống chi là người/Nhật, Tây áp bức giống nòi/Ta nên đoàn kết để đòi tự do. (Bài ca đăng số báo ngày 1-7-1942)

Bài thứ sáu: Tặng thống chế Pêtanh, báo ra ngày 11-7-1942 và bài thứ tám Tặng toàn quyền Đờcu, báo ra ngày 11-8-1942, nhằm phê phán, châm biếm những viên quan của Pháp bất tài, nhu nhược nhưng lại ở những ngôi vị cao.

Bài thứ bảy: Nhóm lửa đăng trên số báo ra ngày 1-8-1942 là để động viên mọi người, mọi tầng lớp vượt qua những gian nan thử thách ban đầu của cách mạng. Cách mạng buổi ban đầu cũng như việc nhóm lửa phải vượt qua bao nhiêu là sự khó khăn, phải làm sao nhen nhóm ngọn lửa từ lúc leo lét, nuôi nó, nương nó cho nó dần dần cháy lên, cháy to lên. Việc cách mạng cũng như việc nhóm lửa phải trải qua một quá trình, từng bước, từng bước thích hợp, đúng đắn mới làm chủ được tình thế, mới vững bước vượt qua những khó khăn. Do xuất phát từ thực tế, nắm vững thực tế với tầm nhìn xa rộng và một phương pháp khoa học bằng cách diễn đạt dẫn giải, liên tưởng từ việc nhóm lửa tới việc cách mạng: Việc cách mạng cũng là như thế/Bước ban đầu là bước gian nan/Nào là đế quốc, mật thám, bọn quan/Đều là lũ ra tay phá hoại/Hở một chút, tức là thất bại/Sai một ly là hại cho dân/Song khi cách mạng đã vững chân/Sẽ ồ ạt lan tràn khắp xứ/Sẽ vùn vụt như tòa núi lửa/Sẽ rầm rầm như ngọn thủy trào/Sẽ kéo theo tất cả đồng bào/Sẽ đè bẹp cả loài lang sói/Lửa cách mạng sáng choang bờ cõi/Chiếu lá cờ độc lập, tự do!

Bài thứ tám: Chơi giăng, báo ra ngày 21-8-1942. Nếu như các bài ca Ca sợi chỉHòn đá nhằm kêu gọi đoàn kết; Con cáo và tổ ong, Ca Đội tự vệ kêu gọi đấu tranh; Nhóm lửa động viên mọi người, mọi tầng lớp vượt qua những khó khăn, thử thách ban đầu của cách mạng. Dưới hình thức hỏi-đáp giữa người và trăng (trăng đã là bầu bạn thân tình với người), trăng đã trả lời hết sức trách nhiệm về đường hướng: Nguyệt rằng: "Tôi kính trả lời ông/Tôi đã từng soi khắp núi sông/Muốn biết tự do chầy hay chóng/Thì xem tổ chức khắp hay không/Nước nhà giành lại nhờ gan sắt/Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng/Tổ chức, tuyên truyền càng rộng rãi/Tức là cách mệnh chóng thành công.

Bài thứ chín: Bài ca du kích. Để chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa, cần phải tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang, trước hết là tổ chức các đội du kích, dấy lên một phong trào toàn dân vũ trang đánh giặc. Bài ca du kích ra đời trong bối cảnh lịch sử đó: Ào, ào ào…/Ào, ào ào…/Già nào/Trẻ nào/Lính nào/Dân nào/Đàn ông nào/Đàn bà nào/Kẻ có súng dùng súng/Kẻ có dao dùng dao/Kẻ có cuốc dùng cuốc/Người có cào dùng cào/Thấy Tây cứ chém phứa/Thấy Nhật cứ chặt nhào. Bài ca du kích cùng với các bài Ca đội tự vệThơ du kích  có thể coi như  một bài ca liên hoàn, giàu chất thơ đã phản ánh một thực tế lịch sử toàn dân tham gia du kích, toàn dân vũ trang đánh giặc, cùng với Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tiến tới đỉnh cao Tổng khởi nghĩa làm nên Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, mở ra một thời đại mới trong lịch sử nước nhà.

Nhà văn LÊ XUÂN ĐỨC