Vai trò chủ đạo
Lịch sử đã chứng minh, cho đến ngày nay, các nền kinh tế thành công đều phát triển không thể bằng cách tự điều tiết mà cần có sự can thiệp và hỗ trợ từ phía nhà nước. Nhà nước với vai trò ban hành thể chế phát triển; nhà nước với tư cách một chủ thể tiêu dùng và đầu tư lớn; nhà nước sử dụng các công cụ kinh tế, trong đó có doanh nghiệp nhà nước (DNNN) để tác động, dẫn dắt nền kinh tế… đi đúng đường lối và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước đề ra.
Những điển hình tiêu biểu của trường phái kinh tế cổ điển Anh, như A. Smith, D. Ricardo cổ xúy cho nền kinh tế thị trường tự do bằng chủ thuyết “Bàn tay vô hình”-hạn chế vai trò nhà nước can thiệp vào kinh tế, đến lý thuyết của J.M. Keynes về nền kinh tế có sự điều tiết của nhà nước và đến lý thuyết của P.A. Samuelson về nền kinh tế hỗn hợp, đều không tách rời vai trò của nhà nước và vai trò KTNN, dù mức độ hết sức khác nhau. Thể hiện trong sự phát triển nhận thức của các trường phái, từ việc còn xem nhẹ vai trò nhà nước và KTNN, đến việc coi trọng vai trò nhà nước để khắc phục khuyết tật của nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, rồi neo chốt ở nhận thức trong nền kinh tế hỗn hợp: “Không thể chỉ vỗ tay bằng một bàn tay”.
    |
 |
Công ty thông tin M1 là một trong các nhà sản xuất điện tử viễn thông hàng đầu tại Việt Nam |
Ở nước ta, từ năm 2010 đến nay, khi Luật DNNN bị xóa bỏ, các DNNN thực hiện chuyển đổi sang dạng doanh nghiệp (DN) hoạt động theo Luật DN, thì có thể hiểu nôm na kinh tế nhà nước hiện bao gồm các bộ phận cấu thành như: Các DNNN 100% vốn Nhà nước đã chuyển đổi hình thức theo Luật DN và phần vốn, tài sản Nhà nước trong các DN khác đang hoạt động theo Luật DN; các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp hoạt động chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà nước; các quỹ và tài sản quốc gia khác (tài chính và phi tài chính) thuộc sở hữu toàn dân như rừng, biển, tài nguyên khoáng sản trong lòng đất, vùng trời, dưới đại dương thuộc chủ quyền của quốc gia thậm chí những cấu thành của chúng không thể tính toán hết bằng tiền...
Những con số biết nói
Theo tài liệu tại “Bộ chỉ tiêu chủ yếu đánh giá mức độ phát triển DN cả nước và các địa phương năm 2017 và giai đoạn 2010-2017” (Tổng cục Thống kê) cho thấy, chỉ tính riêng năm 2017, khu vực DNNN mặc dù đang giảm về số lượng nhưng là các DN có quy mô lớn nên vốn thu hút vào sản xuất kinh doanh hiện nay vẫn còn khá lớn với 9,5 triệu tỷ đồng, chiếm 28,9% tổng vốn của toàn bộ khu vực doanh nghiệp, tăng 19,2% so với năm 2016. Đặc biệt, trong cả ba khu vực (khu vực DNNN, khu vực DN ngoài nhà nước và khu vực DN FDI), khu vực DNNN đang có mức thu nhập bình quân tháng một lao động trong năm 2017 cao nhất với 11,91 triệu đồng, tăng 4,4% so với năm 2016.
Nhìn lại giai đoạn 2010-2017, bình quân giai đoạn 2010-2017, mỗi năm các khu vực DN thu hút thêm 15,4% vốn cho sản xuất kinh doanh (SXKD). Trong đó, khu vực DNNN mặc dù đang giảm về số lượng nhưng đều là các DN có quy mô lớn nên vốn thu hút vào SXKD hiện nay vẫn còn khá lớn, trong giai đoạn 2010-2017, mặc dù số DN, số lao động liên tục giảm (trung bình mỗi năm giảm 4%), nhưng vốn đầu tư vào SXKD của khu vực này vẫn tăng, mỗi năm thu hút thêm 13,2% vốn cho SXKD.
Cũng trong giai đoạn 2010-2017, bình quân mỗi năm doanh thu của các khu vực DN tăng 15,6%, riêng khu vực DNNN tăng chậm hơn với 6,3%/năm do chủ trương cổ phần hóa, sắp xếp lại. Về đóng góp vào ngân sách Nhà nước, mỗi năm khu vực DNNN tăng 9,1%/năm (thấp hơn mức bình quân). Về thu nhập bình quân tháng của người lao động khu vực này tăng 8,9%/năm.
Trên thực tế, hiệu quả kinh doanh của DNNN xét trên tiêu chí lợi nhuận tạo ra, nộp ngân sách Nhà nước có kết quả khá tích cực. Nổi lên trong giai đoạn 2011-2016 có những DNNN nộp ngân sách lớn, như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam: 147.941 tỷ đồng, Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội: 131.400 tỷ đồng.
Như vậy có thể thấy, DNNN vẫn là lực lượng vật chất có tiềm lực mạnh về tài chính, nắm giữ tài nguyên, đất đai, thương hiệu, lực lượng lao động, nguồn vốn, có đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, quản lý hùng hậu… Tuy nhiên, bên cạnh một số mặt như giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động… thì một số chỉ tiêu chủ yếu như lợi nhuận trước thuế, doanh thu, nộp ngân sách Nhà nước đều thấp hơn các khu vực khác, biểu hiện trình độ quản lý và hiệu quả kinh tế thấp, thậm chí thấp hơn mức bình quân toàn khu vực DN.
Những tồn tại trong quản lý
Rõ ràng, những yếu kém không thể là bản chất vốn có của DNNN, mà là yếu kém chủ quan trong quản lý. Một số DNNN hoạt động yếu kém, thua lỗ, còn để xảy ra tình trạng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, làm thất thoát tài sản Nhà nước. Việc cơ cấu lại các DN hoạt động thua lỗ, các dự án DN đầu tư không hiệu quả ở nhiều nơi còn chậm nên hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Hoạt động đầu tư ra ngoài DN còn dàn trải, hiệu quả chưa cao, nhiều DNNN chưa chú trọng đầu tư theo chiều sâu, chậm đổi mới về công nghệ, trang thiết bị, kỹ thuật sản xuất, nâng cao năng suất lao động, ứng dụng và phát triển khoa học-công nghệ. Việc công khai thông tin trong DNNN còn hạn chế…
Có thể nói, những hạn chế, yếu kém của DNNN trong quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước thời gian qua chủ yếu là do vi phạm nguyên tắc thị trường, nguyên tắc quản trị DN, nguyên tắc quản lý tài chính, nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong kinh doanh. Mặt khác, cơ chế, chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện, cơ chế kiểm soát còn nhiều bất cập, đội ngũ quản lý, bộ máy quản lý chưa ngang tầm. Các DNNN cũng chậm được đổi mới theo xu thế thị trường, không chịu thoát ly khỏi những đặc quyền, đặc lợi, vị thế độc quyền nhà nước… cũng là những nguyên nhân làm trầm trọng thêm yếu kém của DNNN.
Tóm lại, bằng thực lực kinh tế và vai trò kinh tế không thể chia sẻ, kinh tế nhà nước là một chủ thể của nền kinh tế, đóng vai trò định hướng cho sự phát triển nền kinh tế theo mục tiêu đã định. Thời gian tới, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để các DNNN thực sự hoạt động trong môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả. Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN, trọng tâm là cổ phần hóa DNNN, theo chủ trương chung để tạo ra một loại hình DN hỗn hợp có nhiều chủ sở hữu, nhằm vừa sử dụng hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước vừa huy động thêm vốn của xã hội vào phát triển SXKD. Trong điều kiện hiện nay, một trong những can thiệp quan trọng của Nhà nước là việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và qua đó, khuyến khích những hoạt động sáng tạo. Điều này có ý nghĩa to lớn trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra hiện nay và điều này ở Việt Nam còn yếu, rất cần quan tâm nếu muốn hội nhập quốc tế sâu. Việc sắp xếp, tái cơ cầu phải theo hướng những DNNN được tiếp tục phát triển là những DN có quy mô lớn, tính chất chuyên môn cao, hoạt động trong những lĩnh vực mà xã hội có nhu cầu lớn để thực sự là lực lượng nòng cốt thực hiện những cân đối lớn trong nền kinh tế, thực hiện được các mục tiêu chính trị-xã hội của Đảng, Nhà nước. Cuối cùng, cần có chính sách, cơ chế bảo vệ cạnh tranh tự do và chống độc quyền.
TS NGUYỄN HUY THÁM