Kinh tế số - xu hướng tất yếu

KTS là vấn đề có tính chất toàn cầu, là bộ phận của kinh tế quốc dân sử dụng công nghệ số và dữ liệu để tạo ra những mô hình kinh doanh sản phẩm, dịch vụ số hoặc hỗ trợ cung cấp dịch vụ số cho doanh nghiệp. Hiện nay, KTS hội tụ nhiều công nghệ mới như: Điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo (AI)... giúp doanh nghiệp xử lý phân tích dữ liệu lớn (big data) để đưa ra quyết định thông minh hơn. KTS giúp doanh nghiệp đổi mới quy trình sản xuất, kinh doanh (SXKD) sang mô hình theo hệ sinh thái, liên kết từ khâu sản xuất, thương mại đến tiêu dùng; thông qua việc sử dụng công nghệ, sản phẩm, dịch vụ được phản ánh từ người tiêu dùng để doanh nghiệp điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu của họ. Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng công nghệ số và dữ liệu để tạo ra những sản phẩm hoàn toàn mới như Grab, Uber.

KTS đòi hỏi phải xây dựng hạ tầng số, theo PGS, TS Nguyễn Ái Việt thì có thể gồm 5 thành phần: Hạ tầng kết nối, hạ tầng thiết bị, hạ tầng dữ liệu, hạ tầng ứng dụng và hạ tầng phát triển công nghệ.

Bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, con người không chỉ sống trong môi trường vật lý và môi trường sinh học mà còn cả trong môi trường không gian số. Bởi, hằng ngày chúng ta đang làm việc trên internet, tìm kiếm thông tin, kinh doanh trên mạng, học tập, giải trí, giao lưu qua mạng, làm cho khoảng cách về địa lý không còn là trở ngại trên bình diện quốc gia cũng như giữa các nước.

leftcenterrightdel
Công nhân Việt Nam sản xuất các chi tiết van tự động trong hộp số ô tô, khóa tự động. Ảnh: LÊ HỮU DŨNG

Google (Mỹ) và Temasek (Singapore) đánh giá KTS của Việt Nam đạt khoảng 3 tỷ USD năm 2015, tăng lên 9 tỷ USD năm 2018 và dự báo đạt 30 tỷ USD năm 2025. Tổ chức Data 61 (Australia) nhận định, nếu chuyển đổi số thành công thì GDP Việt Nam có thể tăng thêm khoảng 162 tỷ USD trong 20 năm tới.

Việt Nam là thành viên của Cộng đồng ASEAN, một thị trường với 650 triệu dân, nền kinh tế lớn thứ 5 thế giới nhưng KTS chỉ chiếm 7% GDP, thấp hơn nhiều 16% của Trung Quốc, 27% của châu Âu và 35% của Mỹ. Do vậy, cần phát huy lợi thế của Cộng đồng kinh tế ASEAN để mỗi quốc gia thành viên gia tăng tỷ trọng KTS trong nền kinh tế quốc dân.

Tiềm năng của Việt Nam

Hạ tầng kết nối của nước ta được phát triển từ những năm 90 của thế kỷ trước với 3 cột mốc quan trọng: Mạng cáp quang từ đầu những năm 90; dịch vụ internet từ giữa thập niên 1990; dịch vụ viễn thông quốc tế từ năm 2000. Với phương châm “cạnh tranh, chống độc quyền”, thị trường công nghệ thông tin đã phát triển nhanh chóng với những doanh nghiệp đầu tàu như: Viettel, VNPT, FPT, CMC đạt đến trình độ những quốc gia dẫn đầu ASEAN.

Hiện nay, nước ta có số người sở hữu điện thoại di động trung bình 1,7 máy/người, trong đó, 70% dân số sử dụng điện thoại thông minh, 70% thuê bao di động mạng 3G, 4G, 68% người Việt xem video và nghe nhạc trên thiết bị di động, số người truy cập các trang thương mại điện tử chiếm 72%, mua hàng trực tuyến online qua điện thoại chiếm 53% dân số.

Từ năm 2011 đến nay, thương mại điện tử (TMĐT) đã có tốc độ tăng trưởng trung bình 25-30%/năm; năm 2019, doanh thu bán lẻ TMĐT đạt khoảng 10,4 tỷ USD, chiếm 4,92% thị phần bán lẻ (221 tỷ USD), dự tính đạt 50 tỷ USD vào năm 2025, chiếm khoảng 12% doanh thu bán lẻ.

Thời gian gần đây đã có một số tập đoàn kinh tế lớn như: Viettel, MobiFone, Vingroup, FPT đầu tư xây dựng một số trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) quy mô lớn; sự hợp tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu khoa học và doanh nghiệp có bước tiến đáng mừng, số công trình nghiên cứu, bài báo khoa học của nước ta được công bố trên các tạp chí quốc tế tăng lên nhanh chóng.

Nguồn nhân lực chất lượng cao đã được chú trọng đào tạo, từ đầu những năm 70 thế kỷ trước, một số trường đại học tại Hà Nội đã dạy môn học AI cho sinh viên, một số nhóm nghiên cứu AI đã được duy trì tại Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Cộng đồng nghiên cứu về xử lý tiếng nói và ngôn ngữ tiếng Việt (VLSP). Theo GS, TSKH Hồ Tú Bảo thì “tính số người Việt làm về AI ở trong và ngoài Việt Nam, cả về số lượng và chất lượng, dường như không có sự khác biệt lớn giữa Việt Nam với Nhật Bản và Hàn Quốc”.

Nước ta đang đối mặt với một số vấn đề liên quan đến KTS. Hiện nay, mỗi bộ, ngành có hệ thống dữ liệu thông tin khác nhau nhưng không liên thông với nhau thành hệ thống dữ liệu quốc gia mà mới chia sẻ một phần thông tin liên quan. Ông Nguyễn Thành Hưng, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ nhận định: Trong KTS, dữ liệu được coi là nhiên liệu của nền kinh tế, nhưng kết nối dữ liệu giữa các bộ, ngành chưa liên thông, do đó khó nói chuyện cạnh tranh với thế giới.

Mặc dù TMĐT gia tăng nhanh chóng nhưng thói quen dùng tiền mặt trong tiêu dùng còn phổ biến, gây trở ngại cho sự phát triển TMĐT.

Hiện nay, nước ta có khoảng 800.000 doanh nghiệp, khoảng 2-3% doanh nghiệp lớn, trong đó có một số tập đoàn kinh tế, một bộ phận doanh nghiệp vừa đã chủ động và tích cực chuyển sang KTS; nhưng doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chiếm hơn 92% số doanh nghiệp chưa sẵn sàng, hoặc dù muốn nhưng không có đủ điều kiện về vốn, công nghệ, nhân lực để chuyển đổi số.

Hà Nội và TP Hồ Chí Minh là hai đầu tàu của kinh tế Việt Nam, thuộc 7 thành phố lớn phát triển KTS của ASEAN nhưng chưa có đột phá về tỷ trọng KTS, mô hình phát triển và chiến lược tăng trưởng KTS để dẫn dắt các địa phương vùng ngoại vi.

Thể chế, chính sách phát triển KTS của Việt Nam chậm hoàn thiện so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; điểm yếu nhất là khoảng cách giữa hoạch định với thực thi thể chế và luật pháp.

Định hướng phát triển

Từ Chính phủ

Chính phủ điện tử, Chính phủ số được hiểu là ứng dụng công nghệ số trong quản lý nhà nước để các cơ quan của Chính phủ từ Trung ương đến cơ sở làm việc có hiệu năng hơn thông qua giao tiếp giữa Chính phủ với người dân, doanh nghiệp, công chức, viên chức và giữa các cơ quan hành chính với nhau.

Để đến năm 2025 có 80% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 (cho phép người dùng thanh toán lệ phí trực tuyến) được cung cấp trên nhiều phương tiện, bao gồm di động thông minh, 90% hồ sơ công việc cấp bộ, tỉnh và 80% hồ sơ cấp huyện được xử lý trên môi trường mạng thì cần xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia bao gồm dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, đăng ký doanh nghiệp, tài chính, bảo hiểm được kết nối, chia sẻ trên toàn quốc theo hướng dữ liệu mở để cả doanh nghiệp và người dân cũng có thể tiếp cận và sử dụng nhưng cần ghi nhận nguồn. Cần coi dữ liệu là tài sản của người chủ sở hữu, từ đó hình thành quan hệ giữa chủ sở hữu với người sử dụng được pháp luật quy định.

Cần có chính sách khuyến khích đầu tư phát triển dịch vụ internet di động 5G, đầu tư mở rộng mạng lưới cáp quang tốc độ cao và tăng băng thông internet quốc tế. Các cơ quan chức năng cần xây dựng xa lộ internet cho các dịch vụ nhiều người dùng như dịch vụ hành chính công, dịch vụ y tế, giáo dục và các dịch vụ khác.

Xây dựng thể chế cho các mô hình kinh doanh KTS, trong đó sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật cho các ngành đang có nhiều mô hình kinh doanh mới, như: TMĐT, tài chính số, ngân hàng số... đồng thời hoàn thiện thể chế để thu hút đầu tư cho các công nghệ số trong các lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, đầu tư thiên thần.

Từ doanh nghiệp

Quá trình chuyển đổi số của doanh nghiệp là sự đổi mới từ công nghệ, nguồn nhân lực đến quản trị doanh nghiệp, không những cần có tư duy mới và chiến lược dài hạn mà còn cần quyết liệt và bài bản trong từng giai đoạn phát triển.

Theo TS Võ Trí Thành thì từ kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ ra 5 trụ cột để doanh nghiệp thành công trong chuyển đổi số: Văn hóa và chiến lược kinh doanh số; gắn kết và tối ưu trải nghiệm khách hàng; tối ưu quy trình; công nghệ hóa; phân tích và quản lý dữ liệu.

Tùy thuộc vào năng lực tài chính, công nghệ, nhân lực của doanh nghiệp mà quá trình chuyển đổi số được thực hiện nhanh hay chậm với tiền đề là tư duy của chủ doanh nghiệp về sự cần thiết phải chuyển đổi số, coi đó là điều kiện sống còn và phát triển của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp lớn, tập đoàn kinh tế trên cơ sở phát huy lợi thế của mình cần hình thành và mở rộng quan hệ hợp tác cùng có lợi với doanh nghiệp cùng ngành, với viện nghiên cứu, trường đại học, trường cao đẳng để hỗ trợ trong việc trao đổi dữ liệu, R&D, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao. Những doanh nghiệp đó cũng cần thu hút các doanh nghiệp vừa, nhỏ, siêu nhỏ vào các chuỗi cung ứng số để tạo điều kiện thúc đẩy quá trình chuyển đổi số của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ cần tận dụng môi trường số quốc gia, sự hợp tác với doanh nghiệp lớn và tập đoàn kinh tế để thực hiện thành công chuyển đổi số theo lộ trình thích hợp và đạt kết quả tốt.

Hiệp hội nghề nghiệp đóng vai trò quan trọng trong chuyển đổi số của doanh nghiệp thành viên, nhất là doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ bằng sự phân công và hợp tác theo chuỗi cung ứng sản phẩm trên thị trường trong nước và thị trường thế giới.

Nhân lực thích ứng với chuyển đổi số

KTS làm thay đổi lao động của con người, một số nghề truyền thống sẽ dần biến mất, một số nghề mới ra đời, phương thức sản xuất, phân phối và tiêu dùng thay đổi, máy móc thay cho lao động của con người.

Nguồn nhân lực được đào tạo thích ứng với chuyển đổi số là nguồn lực quan trọng của đất nước trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

Tháng 7-2016, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) nhận định: Khoảng 70% lao động một số ngành nghề của Việt Nam, như dệt may, giày dép có nguy cơ mất việc làm. Khi chuyển đổi số, người lao động phải được đào tạo lại để có kỹ năng thích ứng với công nghệ mới và cần học hỏi thường xuyên vì công nghệ luôn đổi mới.

Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là quá trình gắn với cuộc cải cách nền giáo dục từ phổ thông đến đại học và dạy nghề, theo hướng cung cấp cho người học tư duy sáng tạo trong lao động để trở thành chủ nhân tương lai của đất nước đang hiện đại hóa. Trong xu thế đó, cần coi trọng đào tạo đội ngũ người lao động trong các ngành nghề với xu thế chuyển đổi số; đồng thời, một số lượng ít hơn kỹ sư công nghệ, chuyên viên kinh tế, nhà quản lý có trình độ cao.

Có thể khẳng định rằng, quốc gia nào thắng cuộc trong quá trình chuyển đổi số là quốc gia đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao, làm chủ công nghệ và dữ liệu, sử dụng có hiệu quả vào SXKD để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Bảo đảm an ninh

KTS đòi hỏi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, doanh nghiệp phải coi trọng an toàn thông tin, vì thực tiễn đã chỉ ra rằng, mạng xã hội của nước ta phát triển rất nhanh, có tác động tích cực truyền tải nhanh thông tin đa dạng đến với các đối tượng khác nhau; đồng thời cũng được sử dụng để nói xấu cá nhân, tổ chức, lan truyền thông tin sai trái, đánh cắp thông tin trên mạng, phá hủy hệ thống, gây tác hại to lớn đối với lợi ích quốc gia.

Trên thế giới và ở nước ta có nhiều giải pháp để bảo đảm an toàn thông tin, được đúc kết thành quy trình 5 bước: Nhận thức hiểm họa; biện pháp phòng, chống; nhận biết khi sự cố xảy ra; năng lực đối phó với sự cố; khả năng phục hồi sau sự cố.

Sự chuyển động theo hướng đổi mới, sáng tạo của các cơ quan nhà nước, của doanh nghiệp và người lao động là điều kiện quyết định để thực hiện thành công “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.

Giáo sư, TSKH NGUYỄN MẠI