Ông Hai Trí lặng đi hồi lâu. Ông đưa bàn tay gầy guộc lên vuốt mặt, xoa tai. Rất lâu. Chúng tôi cũng lặng đi. Tôi cảm thấy lòng mình cũng nặng trĩu. Ông nói, chậm rãi: Tôi chỉ có một mong muốn, một điều ước, nhưng chắc tôi không làm được. Đấy là… đưa được hết anh em mình về. Tất cả, không sót một ai.

Mắt ông ướt, tôi cũng cố nuốt những giọt nước mắt đang ứa ra.

Ông là Huỳnh Trí, thường gọi Hai Trí, vì ông là con lớn trong nhà. Ông Hai Trí là Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân, nguyên Chủ nhiệm Chính trị Bộ CHQS tỉnh An Giang. Năm nay ông tròn 70 tuổi.

Khi ông Hai Trí mới hơn 10 tuổi, vẫn thường chạy đưa công văn, giấy tờ, làm liên lạc cho cách mạng. Thình lình ông bị bắt giam vào đồn. Bố ông lúc đó đã phải bán đi hai con bò, chuộc ông ra. Ra rồi, ông nói với bố, là ông phải đi thôi. Đi hẳn, vào căn cứ. Ở lại sẽ khó hoạt động vì đã rơi vào tầm ngắm rồi. Vậy là ông đi. Để lại sau lưng 8 đứa em với bố mẹ.

Suốt những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, ông vào sinh ra tử, nhiều lần bị thương. Hòa bình lập lại chưa lâu thì chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, lại đi. Chiến tranh kết thúc, tiếp tục cống hiến tới khi xin nghỉ hưu sớm, lại xách ba lô lên đường. Ông không nói, nhưng tôi đồ rằng ông chỉ nhăm nhăm xin nghỉ hưu sớm để quay lại chiến trường, tìm đồng đội đưa về. Hàng nghìn bộ hài cốt liệt sĩ trên đất bạn Campuchia đã được ông Hai Trí cùng anh em Đội K93 tìm được, đưa về.

leftcenterrightdel
Ông Hai Trí

Trong câu chuyện của ông, ông luôn nhắc tới người dân Campuchia. Ông nói, có đến trên 90% số anh em mình tìm được là do bà con mách chỗ. Mấy chục năm đã trôi qua, địa hình địa vật thay đổi quá nhiều. Có nơi xưa là rừng cây nay là nhà cửa ruộng vườn, có nơi xưa là nhà thì nay là đường sá. Không có dân chỉ chỗ thì anh em mình khó tìm. Kể cả những cựu chiến binh từng chiến đấu tại đó mà quay lại cũng không thể xác định được nơi chôn cất anh em.

Ông Hai Trí nói: Tôi day dứt nhất… day dứt nhất, là số anh em mình có hồ sơ mộ chí hẳn hoi, có tên tuổi, quê quán đàng hoàng, ngày mất, nơi mất… mà nay không tìm lại được. Số này hàng trăm. Phần lớn là anh em quê ngoài Bắc. Tôi hỏi tại sao có hồ sơ mà không tìm được? Ông nói: “Hầu hết các đồng chí này khi hy sinh đều được chôn cất hai bên trục lộ 4 của bạn. Trục lộ này đi ra cảng. Ngày xưa Mỹ vận chuyển vũ khí khí tài cũng phải nhờ cảng này. Vì thế mà Mỹ quyết giữ còn ta lại quyết cắt đứt nên thường đụng độ dữ dội tại đây. Anh em hy sinh nhiều, đồng đội chôn cất ngay hai bên. Và khi ta-địch đụng độ, bà con chạy hết. Chạy sâu vô vùng giải phóng. Như vậy lúc chôn cất chỉ mình biết, không có dân. Sau năm 1975 dân mới quay về quê cũ, lúc đó mồ mả mình chôn cất không còn dấu vết gì cả. 4-5 năm trôi qua, rừng cây có khi xanh um rồi, làm sao người ta biết. Còn nếu dân biết, người ta chỉ hết. Nhiều trường hợp mộ chí nằm giữa nhà dân, họ đang ở cũng cho mình đào tung cả nền nhà lên để tìm”.

Ngoài những liệt sĩ hy sinh có hồ sơ, có tọa độ mộ chí, còn rất nhiều người con Việt Nam nằm lại trên đất bạn mà không còn một chút thông tin nào. Có lẽ, đấy là điều khiến người lính già gầy guộc này bận tâm, trĩu nặng nhất. Trong ký ức của ông còn nguyên hình ảnh bốn anh em trong đơn vị của ông đã hy sinh trong một trận đánh: “Sau này tôi lên trên đó, tôi kiếm hoài… kiếm hoài không ra. Mấy cậu này anh em mình chôn. Nhưng bởi vì chỗ này không có dân ở. Anh em chiến đấu, hy sinh rồi mắc kẹt không lấy được. Sau đó anh em còn lại mới ra chôn cất. Thế rồi, sau chính người chôn cũng hy sinh nốt. Thành ra, không có cách nào tìm được thông tin. Không ai biết. Vô phương…”

Tôi phải khó nhọc lắm mới dám cất lời:

- Vậy số anh em mình… khó tìm thấy, đông không chú?

- Tôi xem danh sách liệt sĩ khu vực của mình quản lý, tìm kiếm cất bốc khoảng gần 5.000 thì trong đó 1/3 là mất tin, mất tích. Số mất tin, mất tích khó tìm lắm... Chiến đấu trên đất bạn thì tiểu đoàn của tôi với đơn vị chủ lực hợp đồng với nhau, tôi không biết hy sinh bao nhiêu...

Tôi đã gặp nhiều người lính già để cả tuổi thanh xuân nơi chiến trường. Ông Hai Trí là một người như vậy. Mười hai mười ba tuổi, còn chưa kịp “trổ giò” thì đã đi theo cách mạng. Cứ thế, đi mãi, đi mãi, đến lúc dừng thì gối đã mỏi, mắt đã mờ. Và dù mắt mờ gối mỏi, thì vẫn chưa một ngày nào ngủ yên giấc. Giọng ông chùng xuống: “Con đường tìm kiếm anh em còn dài lắm, chắc chắn là tui không theo hết được rồi. Nhưng mình có lòng tham đó là, mình đi hết khả năng, hổng nổi nữa nhưng lại muốn tìm không còn sót một người nào. Biết chắc chắn rằng điều này không thể thực hiện được. Nhưng ước muốn là phải như vậy. Nhất định không để sót người nào…”.

Ông dừng lại, nhìn vào trong nhà. Người vợ nhỏ bé, tần tảo của ông đang lo cơm nước cho mẹ chồng: “Bây giờ đi hổng được. Thời chiến tôi bỏ bả đi hoài, không ở nhà. Tới yên ổn rồi cũng hổng ở gần bả được. Tới nghỉ hưu thì không được một tuần tôi đi rồi. Tôi đi từ năm chín chín (1999), mà tới hai ngàn (2000) mới thành lập được các đội tìm kiếm”.

Khi ông Hai Trí lên đường sang Campuchia tìm hài cốt đồng đội, có chỗ “dễ thì người ta cho mình lấy, khó thì người ta không cho. Mình cũng chịu”. Sáng leo lên, chiều quay về tay không là chuyện thường. Lúc về, ông viết một lá thư gửi Thượng tướng Phạm Thanh Ngân, lúc bấy giờ là Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Ông nói tình hình đi tìm hài cốt đồng đội bên Campuchia, và đề nghị Nhà nước có ý kiến với bạn. Một thời gian ngắn sau đó, sau cuộc làm việc giữa hai nhà nước, bạn đã đồng ý để ta cử các đội quy tập sang tìm hài cốt liệt sĩ. Có lẽ, đấy là điều khiến ông Hai Trí thấy hạnh phúc nhất kể từ khi nghỉ chờ hưu. Rồi nhiều năm sau đó, ông có mặt trong những đợt tìm kiếm dài ngày trên đất bạn, cho tới lúc sức khỏe không còn cho phép nữa.

Và có lẽ đến tận lúc này, nhìn lại quê nhà, gia đình, ông mới mới nhận ra, suốt cuộc đời mình, ông đã dành toàn bộ sức lực, trí tuệ, tâm huyết, trái tim và tâm hồn cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc dài dằng dặc, trong đó bao gồm cả tình nghĩa với đồng đội đã hy sinh. Những điều đó đã níu giữ ông, buộc ông phải để cho người vợ tảo tần phải gánh hết những lo toan thường nhật.

Tôi hỏi ông cái điều mà tôi có thể đoán được câu trả lời, đấy là: Có khi nào đồng đội về tìm chú không?

Ông im lặng hồi lâu. Suốt cuộc nói chuyện, ông thường im lặng rất lâu trước một điều gì đó mà chúng tôi gợi ra. Đều là những điều mà tôi tin rằng một người như ông sẽ đau đáu mang theo tới tận lúc rời khỏi cõi tạm.

“Tôi nằm mơ thấy hoài. Mơ đào được anh em, nhưng thức dậy mới biết mình mơ. Mơ gặp hoài. Nhưng vạn lần mơ cũng gặp được một hai lần. Nhất là những lúc đi tới hai ba tháng không gặp được ai. Đêm nào cũng mơ hết. Có lần, tôi thấy có mấy người đứng trước lều mình, nói: Mấy thủ trưởng đi lấy hài cốt sao không lấy em về? Tôi hỏi: Mầy lính nào? Nó nói, em lính bảy chín. Chôn ở đâu? Chôn ở vườn cam. Trời! Thức dậy tôi hỏi anh em: Các ông đi khảo sát chỗ này có vườn cam không? Có. Có nghĩa trang mình không? Có. Lúc nào? Bảy chín, nhưng mình lấy hết rồi. Tôi nói, giờ mình lên vườn cam coi còn sót cái nào không. Cái nghĩa trang vầy, sót đây một ông, đây một ông nữa, ở hai đầu vườn. Có lẽ là do bệnh nghề nghiệp của mình nó vậy. Đào không được đêm nào cũng nằm mơ. Đào được thì mừng lắm…”.

Ông Hai Trí cứ nói chuyện rủ rỉ trong lúc màn đêm đang buông xuống dần. Tôi không nỡ dứt tôi khỏi câu chuyện của ông. Tôi biết trước rằng nó sẽ còn ám ảnh tôi rất lâu, rất lâu. Khi tôi cất tiếng khóc chào đời thì ông đã cầm súng chiến đấu gần 20 năm trời. Tôi và những người cùng thời luôn cố gắng tìm hiểu, chạm tới lẽ sống, lý tưởng của những thế hệ đi trước, cốt cũng để mình có thể trân trọng hết mức giá trị của hòa bình đang được tận hưởng.

Ông Hai Trí, tôi muốn gọi ông bằng cái tên ấm áp, thân mật ấy. Tôi muốn nói lời cảm ơn từ tận đáy lòng, rằng ông và những người đồng đội đã để lại cho chúng tôi một bài học lớn về đức hy sinh và tình yêu Tổ quốc. 

Ghi chép của ĐỖ BÍCH THỦY