Đất rộng, chủ yếu là rừng già phủ rợp trên dãy Trường Sơn nên người rất thưa. Điều kiện sinh hoạt, đường sá đi lại khó khăn, tập quán canh tác của người dân chủ yếu dựa vào nông, lâm sản tự cung, tự cấp. Trên mảnh đất hoang vu còn nhiều thiếu thốn ấy, tình quân dân giữa bộ đội Đồn Biên phòng Châu Khê, Bộ đội Biên phòng tỉnh Nghệ An với người dân địa phương càng bền chặt, cùng nhau bám đất, bám rừng bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc.

Về Trà Lân cổ

Bóng xế tà, chúng tôi có mặt ở nút giao giữa Quốc lộ 7 và đường liên xã rẽ vào nơi tận cùng của xã Châu Khê. Gọi là tận cùng vì trung tâm xã nằm ở giáp mặt đường nhưng bản xa nhất nơi có Đồn Biên phòng Châu Khê đóng quân, bám dân, bảo vệ chủ quyền cách đó gần 40km. Quãng đường chừng đó thôi nhưng chúng tôi phải đi mất gần 3 giờ đồng hồ vì xen kẽ với những đoạn đường bê tông, đường tuần tra biên giới là những đoạn đường đất rất lầy lội. Một bên là núi cao, một bên là vực sâu thăm thẳm, bên dưới có dòng Khe Choăng uốn lượn nên con đường giống như sợi chỉ vắt ngang vách núi, ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, vừa hun hút, vừa rờn rợn cô liêu.

leftcenterrightdel
Cán bộ Đồn Biên phòng Châu Khê xuống bản khe Bu làm công tác dân vận

Trời tối sẩm chúng tôi mới đến được Đồn Biên phòng Châu Khê, xung quanh một miền hoàn toàn hoang vắng. Trung tá Nguyễn Quang Vĩnh, Chính trị viên phó Đồn Biên phòng Châu Khê đón chúng tôi với lời chào thú vị:

- Chào các anh đến với nơi “thâm sơn cùng cốc” miền Trà Lân cổ!

- Có phải là địa danh Trà Lân trong câu: “Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay” trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi không?

- Đúng vậy. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sĩ Liên, thế kỷ 13, huyện Con Cuông có tên là Nam Nhung, Kiềm Châu, sau đó đổi là Mật Châu. Năm 1406, nhà Minh xâm chiếm, đổi nước ta thành quận Giao Chỉ và cũng đổi Mật Châu thành Trà Long rồi Trà Thanh. Nhà Lê gọi là phủ Trà Lân. Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” đã nhắc đến địa danh này, chính là câu “Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”.

Năm Minh Mạng thứ hai (năm 1822), nhà Nguyễn đổi tên phủ Trà Lân thành phủ Tương Dương, gồm 4 huyện: Tương Dương, Vĩnh Hòa, Hội Nguyên và Kỳ Sơn. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, huyện Tương Dương được chia thành hai huyện Tương Dương và Con Cuông. Khi mới thành lập, huyện Con Cuông có 6 xã, trong đó có xã Châu Khê ngày nay.

Câu chuyện ngắn với Trung tá Nguyễn Quang Vĩnh khơi gợi cho chúng tôi ý tưởng khám phá mảnh đất lịch sử, giàu truyền thống nơi đây. Sau hàng trăm năm biến thiên của thời gian, Châu Khê ngày nay có gì đổi mới?

Trời tối nhá nhem, sương giăng giá lạnh nhưng chúng tôi thấy hầu hết bộ đội tập trung tại các bộ bàn ghế đá kê trước sân. Các dãy nhà im lìm không lên đèn. Chúng tôi băn khoăn:

- Trời tối sao bộ đội không bật điện?

Đại úy Phan Minh Hoàng, Đội trưởng Đội Vận động quần chúng nhanh nhảu:

- Đơn vị đóng quân trong lõi Vườn quốc gia Pù Mát nên các loại côn trùng, muỗi, ruồi vàng rất nhiều. Chỉ cần có ánh điện là chúng kéo đến từng đàn, bâu đầy nhà, ảnh hưởng đến sinh hoạt của bộ đội.

- Thực ra câu trả lời của anh Hoàng mới đúng một phần. Cơ bản là do ở đây chưa có điện lưới. Đồn phải dùng điện từ năng lượng mặt trời-anh Vĩnh chia sẻ thêm. Ngày sầm sì, âm u, điện năng không đủ. Biết có khách lên chơi nên chúng tôi nhắc anh em tiết kiệm để chút nữa ăn cơm không bị tắt ánh sáng giữa chừng.

Bữa cơm tối được bày lên, chủ và khách quây quần. Sau vài tuần rượu đế, hơi nóng từ bên trong cơ thể tỏa ra, xua tan một phần cái lạnh buốt, mọi người trở nên gần gũi, câu chuyện xôm hơn. Lúc này, chúng tôi dành nhiều thời gian để tìm hiểu kỹ hơn về cuộc sống bộ đội ở đồn. Anh Vĩnh cho biết, Đồn Biên phòng Châu Khê mới được thành lập từ năm 2008. Ban đầu, đồn đứng chân ở bản Bu, xã Châu Khê. Từ năm 2018, theo yêu cầu nhiệm vụ mới, đồn di dời sâu vào sát biên giới, cách vị trí cũ khoảng 25km. Đặc điểm nơi ở mới trong vùng lõi Vườn quốc gia Pù Mát nên xung quanh không có dân cư. Bản gần nhất cũng cách đồn hơn 20km đường rừng. Đồn đảm nhiệm bảo vệ 24km đường biên và 4 mốc biên giới. Địa bàn xã Châu Khê đồn phụ trách rộng nên được thành lập Trạm Kiểm soát biên phòng (KSBP) Châu Khê ở bản Bu và tổ công tác tại cụm Khe Nóng. Đây là hai nơi tập trung sinh sống chủ yếu của người đồng bào dân tộc Đan Lai. Điều kiện kinh tế, đời sống của người dân còn rất khó khăn.

- Xa dân nên việc thực hiện nhiệm vụ và đời sống sinh hoạt của bộ đội hẳn là nhiều khó khăn?

- Khó khăn nhất của chúng tôi là không có điện và không có sóng điện thoại. Ngoài ra, thực hiện công tác dân vận và bảo đảm an ninh trên địa bàn biên giới cũng có nhiều trở ngại.

Trò chuyện với nhiều cán bộ trong đồn, chúng tôi được biết, bộ đội ở đây rất mong mỏi có điện. Vì theo đó sẽ có sóng điện thoại. Thời đại công nghệ 4.0 mà không có sóng điện thoại, bước vào đồn, bộ đội gần như không thể liên lạc được với gia đình. Ở nhà vợ con, người thân có việc gì xảy ra cũng không thể nắm được thông tin. Dù xác định tâm lý vững vàng trước khi lên đồn nhận nhiệm vụ nhưng đôi lúc cũng chạnh lòng. Để giải quyết tình thế trước mắt, ngày nghỉ cuối tuần, cán bộ, chiến sĩ thay phiên nhau ra Trạm KSBP ở bản Bu, vừa kết hợp làm nhiệm vụ, đồng thời tranh thủ gọi điện về cho gia đình kết nối sợi dây liên lạc. Ngoài ra, đồn cũng cung cấp số điện thoại thường trực ở trạm cho người thân của cán bộ, chiến sĩ trong đồn, khi có việc cần kíp gọi điện thông báo, cán bộ trạm liên lạc chạy bộ vào đồn thông báo cho mọi người.

Biên cương trên đôi vai người lính

Đất Châu Khê tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, được phủ rợp bóng Vườn quốc gia Pù Mát, vùng lõi của khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An do UNESCO công nhận năm 2007. Cảnh sắc thiên nhiên đẹp, thâm nghiêm nhưng heo hút, hẻo lánh. Thực hiện nhiệm vụ trên mảnh đất này, sự gian nan của người lính tăng thêm gấp bội. “Chưa cần phải tìm hiểu kỹ, chỉ cần nhìn qua nước da của người lính biên phòng Châu Khê cũng cảm nhận được một phần. Hầu hết anh em sống ở đây nước da đều mai mái màu chì, chân tay, người đầy vết thâm, loang lổ như bị ghẻ”-anh Vĩnh vui vẻ tếu. Rồi anh giải thích: Con muỗi ở đây to như con ruồi dưới xuôi, mà muỗi không đi đơn lẻ, thường bay theo từng đàn như ong. Nhưng sợ nhất là ruồi vàng. Nó có kích thước nhỏ, bay nhanh nên khó phát hiện. Chỉ cần một phần da thịt hở ra là chúng bâu vào đốt. Đặc điểm loại ruồi này hút máu rất nhẹ khiến ta khó phát hiện. Nguy hiểm hơn, vết đốt sau đó rất ngứa, thậm chí dễ gây lở loét da, lâu lành. Những vết thâm do ruồi vàng đốt ấy gây sẹo trên bề mặt thì cũng mất vài tháng mới hết. Chúng tôi quan sát thấy anh em chiến sĩ ở đồn biên phòng này hầu như chân tay ai cũng chằng chịt vết thâm như thế. Theo họ kể thì năm trước có một học viên về thực tập ở đồn, ngay ngày đầu công tác không để ý bị ruồi vàng đốt nhiều, sốt liền hai tuần.

Chuyện đối phó với nạn ruồi vàng cũng chỉ là phụ đối với người lính Châu Khê, bởi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của họ ở địa bàn này còn gian nan gấp bội. Đường biên giới bảo vệ dài, rừng núi hiểm trở, mỗi lần đi tuần tra biên giới phải mất hàng tuần, thậm chí dài hơn. Mỗi chuyến đi cũng tiềm ẩn biết bao nguy hiểm.

Khi nói về câu chuyện tuần tra bảo vệ biên giới, chúng tôi được Trung tá Nguyễn Quang Vĩnh cho biết, đơn vị đang cử người xuống thăm Trung úy QNCN Nguyễn Cảnh Thành đang nằm viện ở huyện Con Cuông để điều trị sau đợt đi tuần tra đường biên. Theo chẩn đoán ban đầu, Thành bị trật khớp chân, phần da ở bẹn và bàn chân bị phồng rộp, sức khỏe suy giảm, đi lại rất khó khăn. Ở đây, mỗi lần đi tuần tra biên giới, mỗi người đều phải mang trên mình 20-25kg gồm cả nồi niêu, thực phẩm, quân tư trang.

Pù Mát theo tiếng Thái nghĩa là những con dốc cao. Cột mốc, đường biên ở Pù Mát cheo leo trên những dãy đá phủ rợp dưới đại ngàn nên rất hiểm trở, dễ trơn trượt. Người lính đi tuần vừa phải mang vác nặng, vượt đèo dốc, lại phải đối mặt với rất nhiều khó khăn rình rập từ thiên nhiên như muỗi, vắt, côn trùng đến rắn, lợn rừng, báo… Tối đâu là nhà, ngã đâu là giường. Đêm đông có khi xuống 4-5 độ C nhưng chỉ có một tấm áo mưa, tấm tăng, mấy bộ quần áo trên người vượt qua giá lạnh, dãi nắng dầm mưa bất kỳ lúc nào giữa rừng già. Mặc dù khó khăn như thế nhưng họ luôn giữ vững và phát huy bản lĩnh, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong năm 2019, Đồn Biên phòng Châu Khê đã phối hợp với dân quân, tự vệ xã tổ chức 16 tổ/105 lượt người tuần tra cột mốc đường biên bảo đảm an toàn tuyệt đối, cột mốc, đường biên giữ nguyên trạng, không bị xâm phạm.

Đã từng đi nhiều đồn biên phòng trong cả nước, khi trò chuyện với những người lính biên phòng, chúng tôi được biết việc tuần tra biên giới ở Đồn Biên phòng Châu Khê là một trong những nơi gian khổ, khó khăn nhất của nước ta. Để biên giới thêm vững chắc, nguồn lực “sức mạnh mềm” nơi biên giới thường xuyên phải được bồi đắp, củng cố. Đó là sức mạnh lòng dân, sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân. Câu chuyện khơi gợi, phát huy sức mạnh của nhân dân bám đất, bảo vệ biên giới của cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Châu Khê chúng tôi xin kể ở phần tiếp theo.

(còn nữa)

Bài và ảnh: VĂN TUẤN - DUY THÀNH