Trước thực trạng đó, Đồn Biên phòng Châu Khê chủ động mở lớp học tình thương dạy chữ cho người dân vào buổi tối ngoài các nhiệm vụ thường xuyên. Hiệu quả của công việc này chưa thể thấy ngay trong một sớm, một chiều nhưng có thể coi là yếu tố góp phần để tương lai mảnh đất này tươi sáng hơn.
Người dân nghèo đói chữ
Sau một ngày ở Đồn Biên phòng Châu Khê, chúng tôi đi địa bàn tìm hiểu về cuộc sống người dân. Được mọi người giới thiệu, cụm Khe Nóng là cụm dân cư xa nhất của xã Châu Khê. 100% dân cư trong cụm là người Đan Lai, nằm tít trong rừng sâu, cách đường liên xã gần 10km. Để đến được với người dân chúng tôi phải vượt qua tổng cộng 8 hủm sâu của con suối. Mưa rừng rả rích, nước từ dãy Trường Sơn cuồn cuộn đổ xuống. Rất may, khi chúng tôi vào đến tổ công tác của Đồn Biên phòng Châu Khê thì cũng vừa hay nước suối dâng cao chia cắt hoàn toàn cụm Khe Nóng với cuộc sống bên ngoài.
Mưa rừng, gió rét như thế nhưng trên đường đi thỉnh thoảng chúng tôi lại bắt gặp một vài phụ nữ vào rừng lấy măng. Trên vai họ gùi măng cao quá đầu, không có một manh áo mưa, người ướt sũng. Đôi chân trần của họ găm vào đất, người uốn cong lao về phía trước vượt gió mưa. Chúng tôi dừng lại lân la hỏi chuyện, họ ngại ngần chỉ cười. Khi gặp ông La Văn Quỳnh, 69 tuổi, một trong số ít người cao tuổi nhất ở cụm Khe Nóng, ông Quỳnh cho biết: “Hiện nay, cụm có 48 hộ gia đình. 100% đều thuộc diện hộ nghèo. Ngoài việc trồng lúa ở những khoảnh ruộng gần khe suối, cuộc sống của người dân chủ yếu dựa vào lâm sản phụ của rừng. Từ tháng 7 đến tháng 10 người dân vào rừng hái măng. Mỗi gùi măng cao quá đầu người ấy được đem về và làm thêm rất nhiều công đoạn khác nữa như luộc, phơi khô, ngót lại còn khoảng 2kg. Giá măng thời điểm hiện tại được hơn 70.000 đồng/kg. Tính ra, công lấy một ngày, thêm bao mồ hôi sơ chế cả tuần được hơn 100.000 nghìn đồng. Rồi đến mùa hạt dẻ, mùa trám… người dân đi hái lượm về bán mua lương thực”.
leftcenterrightdel
Bộ đội Đồn BP Châu Khê xuống bản vận động bà con đi học chữ
Nói rồi ông Quỳnh thở dài, bao nhiêu năm nay, cuộc sống người dân nơi đây vẫn vậy, nhà tranh mái lá, thiếu thốn đủ đường. Có ruộng rồi còn được Nhà nước hỗ trợ thêm gạo mà giáp hạt vẫn đói. Mấy năm nay, một số thanh niên rời bản xuống núi xin vào làm ở khu công nghiệp. Tuy nhiên, vốn chữ nghĩa ít, giao tiếp và hội nhập văn hóa khó khăn nên tiền công cũng không được bao nhiêu. Học cái tốt thì khó, du nhập cái xấu rất nhanh. Cá biệt, có trường hợp sa ngã vào tệ nạn xã hội như cờ bạc, lô đề, ma túy thân tàn ma dại một đời.
Ngoài trời, mưa càng lúc càng nặng hạt, nhìn xa xăm qua mái nhà tranh, ông Quỳnh lẩm nhẩm: “Bộ đội Biên phòng Châu Khê đến với khu dân cư, hướng dẫn cho bà con biết kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, cách tính toán làm ăn kinh tế. Bộ đội đã cầm tay chỉ việc nhưng người dân nghe trước quên sau. Giá như người dân có được cái chữ, biết đọc sách, đầu óc mở mang thì đỡ”. Nói đến cái chữ, ông Quỳnh tâm đắc như điều ước ao đã ấp ủ bấy lâu. Ông bảo, năm nay Đồn Biên phòng Châu Khê mở lớp học tình thương ở cụm Khe Nóng hiệu quả tức thì chưa rõ nhưng hiệu ứng lan tỏa của lớp học mang lại thì khá rõ ràng.
Gian nan cõng chữ lên Khe Nóng
Trò chuyện với Trung tá Nguyễn Quang Vĩnh, Chính trị viên phó Đồn Biên phòng Châu Khê, chúng tôi hỏi về tỷ lệ người dân biết chữ ở xã, anh Vĩnh cho biết:
- Xã Châu Khê đã phổ cập giáo dục. Tuy nhiên, những người ở độ tuổi ngoài 30 một chút, tình trạng tái mù chữ rất cao.
 Nghe anh Vĩnh nói vậy, ông La Văn Quỳnh lý giải thêm:
- Nguyên nhân cũng một phần do tập quán và một phần nét đặc thù văn hóa của lịch sử để lại. Sau cuộc phân tranh Lê-Mạc (1533-1592), ở vùng Nghệ Tĩnh, các vương triều phong kiến tập quyền đã biến nơi đây thành lãnh địa tranh chấp quyền lực, đẩy người dân thành nạn nhân của hỗn chiến phu phen, tạp dịch, tô tức cực hình. Lúc này ở miền Hoa Quân (nay thuộc huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An) có một bạo chúa khét tiếng tàn ác đã bắt dòng họ La phải tìm và cống nộp “một trăm cây nứa bằng vàng, một chiếc thuyền chèo liền mái”, nếu không sẽ “tru di” cả họ”.
Trước nhiệm vụ “bất khả thi”, để tránh một cuộc thảm sát xảy ra, trong đêm tối mịt mùng, cả dòng họ La gồng gánh cùng nhau trốn chạy lên rừng. Từ đó, một bộ tộc mới ra đời, gọi là bộ tộc người Đan Lai. Đã mấy trăm năm trôi qua, đến nay, cuộc sống người Đan Lai ở cụm Khe Nóng vẫn mang một chút dáng dấp của tổ tiên, ở sâu trong núi rừng, cách biệt với xã hội bên ngoài. Cụm dân cư không điện, không chợ, ít giao tiếp với xã hội bên ngoài nên việc người dân tái mù chữ cao cũng là điều dễ hiểu.
Để giúp người dân cụm Khe Nóng học chữ, Đồn Biên phòng Châu Khê phối hợp với Hội Phụ nữ xã Châu Khê mở lớp học tình thương. Tổ chức lớp học và giáo viên lên lớp do cán bộ đồn đảm nhiệm. Theo phân công của đồn, tổ giáo viên do ba đồng chí, Đại úy Phan Minh Hoàng, Đội trưởng Đội Vận động quần chúng, Trung úy QNCN Lê Hữu Chơ và Thượng úy Hà Văn Hà đảm nhiệm. Do điều kiện cơ sở vật chất khó khăn nên lớp học phải mượn điểm trường của cụm. Thời gian tranh thủ học buổi tối.
Để hiểu sâu hơn về hiệu quả của lớp học, chúng tôi cùng Trung úy QNCN Lê Hữu Chơ vào thăm các hộ gia đình có người đã theo lớp học. Chị La Thị Thanh, phụ trách phụ nữ cụm Khe Nóng chia sẻ:
- Khi có chủ trương mở lớp học, chúng tôi đã nghĩ đến rất nhiều khó khăn. Người dân bản ban ngày đi làm, tối muộn mới về, lại phải lo công việc cơm nước, con cái, gia đình nên sắp xếp thời gian đi học là cả một vấn đề. Bên cạnh đó, do nếp nghĩ ăn sâu bám rễ trong đầu, họ chỉ cần no bụng, học chữ cũng không để làm gì nên lảng tránh việc học hành.
Vì vậy, để vận động người dân đi học, giáo viên đứng lớp phải chứng minh cho người dân thấy được lợi ích và cái tâm của người thầy. Trung úy Lê Hữu Chơ cho biết: “Để vận động người dân đi học, ban ngày chúng tôi phải xuống cụm giúp dân lợp mái nhà, rào ruộng, hướng dẫn kỹ thuật trồng rau…”. 5 tháng liên tục từ tháng 5 đến tháng 10-2019, dần dần người dân tin yêu, mến phục mới đi học. Nói thì dễ nhưng để thực hiện được điều đó là cả hành trình nhiều gian nan.
Những ngày đầu mở lớp, số người đến học rất ít, hôm đi, hôm nghỉ. Vậy là, lớp học phải vận động cả những người già trong cụm tham gia. Ông La Văn Quỳnh cho biết: “Tôi là người nhiều tuổi trong cụm, lại từng có thời gian đi bộ đội, tham gia chiến đấu ở địa phương từng được mời làm đại diện cho đồng bào dân tộc thiểu số gặp mặt các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước nên được người dân tin tưởng. Ngay khi lớp học tình thương được mở, tôi cùng vợ là bà La Thị Chương, tuổi xấp xỉ 70, cùng nhau đi học”. Ở tuổi gần “thất thập cổ lai hy”, việc học của vợ chồng ông Quỳnh, bà Chương không hẳn vì cái chữ mà để làm gương cho con cháu, nêu cao tinh thần hiếu học. Một phần cũng vì cảm mến tình nghĩa của các chú bộ đội.
Là lớp học tình thương nên người đến học cũng rất đa dạng, có gia đình cả ba thế hệ ông bà, con, cháu theo học. Ngoài việc dạy chữ, lo toan tổ chức lớp học, giáo viên phải bỏ thêm tiền túi mua bút vở cho người học. Chị La Thị Bình, cụm Khe Nóng xúc động chia sẻ khi tham gia lớp học:
- Trước đây tôi cũng học đến lớp 2, lâu không động đến chữ nên quên mất. Ban đầu đi học ngại lắm. Nhưng thấy các chú bộ đội Đồn Biên phòng Châu Khê nhiệt tình quá nên tham gia. Nhiều chị em đến lớp mang theo cả con nhỏ. Các cháu quấy khóc, các chú còn mua cả bánh kẹo để dỗ dành. Vừa được học chữ, vừa có cơ hội giao lưu, học tập, củng cố mối quan hệ làng xóm, gắn kết tình quân dân. Niềm vui không sao kể hết.
Kết hợp với việc dạy học, các chiến sĩ Đồn Biên phòng Châu Khê lồng ghép thêm nội dung tuyên truyền phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Vận động bà con cùng tham gia bảo vệ rừng và động vật quý hiếm ở Vườn Quốc gia Pù Mát. Kết thúc 5 tháng học đầu tiên, 27 người tham gia đều có thể biết đọc, biết viết trở lại. Tuy mức độ đọc viết có khác nhau, nhưng qua những buổi học, người dân cơ bản được tiếp cận với nhiều điều mới mẻ. Khi tiếp xúc với đa số những người đã tham gia lớp học chúng tôi còn cảm nhận được tinh thần phấn khởi, niềm tin vào kiến thức do giáo viên Đồn Biên phòng Châu Khê truyền dạy. Họ tin tưởng rằng, nếu có nền tảng chữ nghĩa đầy đủ, sẽ mở ra con đường tiếp cận với kiến thức cấy trồng, chăn nuôi, đó là cơ sở để đời sống đi lên, vươn ra khỏi những tán cây rừng xum xuê.
(Còn nữa)
Bài và ảnh: VĂN TUẤN - DUY THÀNH