QĐND - Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - đỉnh cao của Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 là chiến công lớn nhất, chói lọi nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954). Tiếp cận dưới góc độ văn hóa quân sự, có thể khẳng định: Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 là một biểu tượng sáng ngời của văn hóa quân sự truyền thống Việt Nam.
 |
Bác Hồ tặng huy hiệu cho các chiến sĩ lập công xuất sắc trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, tháng 5-1954. Ảnh tư liệu
|
Văn hóa quân sự truyền thống Việt Nam được hình thành và phát triển trong quá trình dựng nước và đấu tranh giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc ta. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã sáng tạo nên nhiều giá trị văn hóa như lòng yêu nước; khí phách anh hùng, bất khuất chống ngoại xâm; lòng nhân ái, khoan dung; ý thức tự cường, tự tôn dân tộc. Trong đó yêu nước được coi là “giá trị của mọi giá trị”, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt chiều sâu văn hóa dân tộc. Những cái chung ấy chính là suối nguồn làm nảy sinh, phát triển các giá trị văn hóa quân sự Việt Nam truyền thống. Văn hóa quân sự Việt Nam truyền thống vừa mang đặc điểm của văn hóa quân sự nói chung là thể hiện cái chân, thiện, mỹ trong môi trường, tổ chức và hoạt động quân sự; song lại có tính đặc thù là được sáng tạo nên từ lịch sử quân sự dân tộc. Đó là lịch sử hàng nghìn năm dân tộc ta luôn phải đương đầu và giành thắng lợi trước các thế lực ngoại xâm có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn hơn chúng ta nhiều lần. Chính đặc thù đó của lịch sử dân tộc đã sáng tạo nên sự độc đáo của văn hóa quân sự Việt Nam truyền thống.
Nội dung cốt lõi của văn hóa quân sự Việt Nam truyền thống là các giá trị với hai dạng thức cơ bản là giá trị văn hóa quân sự vật thể và giá trị văn hóa quân sự phi vật thể. Giá trị văn hóa quân sự Việt Nam truyền thống ở dạng thức phi vật thể là một hệ giá trị gồm: Cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc; lòng yêu nước, thương nòi sâu sắc; tinh thần nhân đạo, nhân văn cao cả; nghệ thuật đánh giặc kiên cường, sáng tạo, độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Các giá trị đó được kết tinh trong suốt lịch sử quân sự hàng nghìn năm của dân tộc và được biểu hiện với hai đặc trưng nổi bật là tính sáng tạo và tính nhân văn. Tính sáng tạo của giá trị văn hóa quân sự Việt Nam truyền thống thể hiện đậm nét từ tư duy chiến lược quân sự đến nghệ thuật quân sự, nhằm giành thắng lợi trước các thế lực xâm lược có tiềm lực kinh tế - quân sự mạnh hơn chúng ta nhiều lần. Tính nhân văn của giá trị văn hóa quân sự Việt Nam truyền thống biểu hiện ở các giá trị chân, thiện, mỹ trong hoạt động quân sự vì sự sinh tồn của dân tộc Việt Nam, góp phần vào sự tồn tại và phát triển của các dân tộc khác. Tính sáng tạo và tính nhân văn gắn bó chặt chẽ, trong đó tính nhân văn là nền tảng, bởi mọi hoạt động quân sự, nếu không được tiến hành trên nền tảng nhân văn, thì sẽ không có công lý và chính nghĩa, sẽ chà đạp mạng sống con người, hủy diệt văn minh nhân loại. Tính sáng tạo và tính nhân văn thể hiện trong toàn bộ lịch sử quân sự Việt Nam, đặc biệt là trong các trận quyết chiến chiến lược, tạo bước ngoặt kết thúc chiến tranh, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Trong đó, Điện Biên Phủ 1954 là một trận quyết chiến chiến lược, được so sánh như một Bạch Đằng, một Đống Đa, một Chi Lăng trong thế kỷ 20 của dân tộc Việt Nam. Với ý nghĩa đó, Chiến thắng Điện Biên Phủ xứng danh là một biểu tượng sáng ngời của văn hóa quân sự Việt Nam truyền thống.
Điện Biên Phủ là một chiến dịch chiến lược mà tầm vóc, tác động của nó đến cục diện hai bên đã không một chiến dịch nào đạt tới trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp. Vì vậy, Chiến dịch Điện Biên Phủ cũng đạt tới tầm cao của tính sáng tạo và tính nhân văn trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Tính sáng tạo của Chiến dịch Điện Biên Phủ thể hiện đậm nét ở quyết tâm chiến lược và phương pháp tác chiến (nghệ thuật quân sự) chiến dịch, chiến lược. Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, trong cuốn "Điện Biên Phủ" (Nxb QĐND - 1969) khẳng định: Có thắng lợi của Điện Biên Phủ, trước hết là do chủ trương kiên quyết kháng chiến của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Đó là con đường duy nhất để bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Từ chủ trương về chính trị ở tầm chiến lược đó, Đảng ta trên cơ sở đường lối quân sự của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vận dụng vào thực tiễn cụ thể của chiến tranh cách mạng của một nước thuộc địa nửa phong kiến, phải chiến đấu chống một kẻ địch mạnh về số lượng, vũ khí và trang bị, trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc. Đó cũng là sự phát triển rất phong phú của truyền thống bất khuất và mưu lược của tổ tiên ta dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Đường lối chính trị, quân sự sáng suốt là cơ sở của nghệ thuật quân sự sáng tạo. Điện Biên Phủ đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật đánh giặc kiên cường, sáng tạo, độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Đó là nghệ thuật tài giỏi trong việc tiến hành các bước chuẩn bị và thực hành tác chiến của trận quyết chiến chiến lược.
Về công tác chuẩn bị, nổi lên là nghệ thuật điều địch và chuyển phương châm tác chiến. Chúng ta đã thực hành tài tình nghệ thuật điều địch làm cho chúng thất bại ý đồ tập trung lực lượng cơ động chiến lược ở Đồng bằng Bắc Bộ, nhằm giành lại quyền chủ động chiến lược bằng một loạt kế hoạch tiến công để chuẩn bị cho một trận quyết chiến chiến lược trên một chiến trường do chúng lựa chọn. Nhận rõ mưu đồ của địch, ta đã sử dụng một bộ phận chủ lực, mở cuộc tiến công vào những điểm hiểm yếu mà địch tương đối sơ hở, làm thất bại ý đồ chiến lược chủ yếu, tiêu diệt từng bộ phận lực lượng địch, tiến tới làm phá sản kế hoạch chiến lược của chúng. Nét đặc sắc nhất của nghệ thuật điều địch là chúng ta đã tạo nên tình thế, buộc địch phải ném chủ lực xuống thung lũng Điện Biên Phủ. Việc phải đưa quân chủ lực lên chiến trường miền núi Tây Bắc vốn không nằm trong ý đồ chiến lược của địch, cũng như Điện Biên Phủ trước đó không nằm trong kế hoạch của Na-va. Khi địch bị động đổ quân xuống thung lũng Điện Biên Phủ thì ta đã nhạy bén, ngay lập tức nắm lấy thời cơ, hạ quyết tâm tiêu diệt chúng và biến Tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ thành một trận quyết chiến chiến lược lớn nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam, đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi cuối cùng. Song, làm thế nào để tiêu diệt Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, một tập đoàn có sức mạnh quân sự mà địch từng tuyên bố là "bất khả chiến bại", đòi hỏi phải có phương châm tác chiến phù hợp, hiệu quả. Nét độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam được vận dụng trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược là tuy đối phương luôn luôn hơn ta về tổng thể, nhưng ta lại biết cách tập trung binh lực, hỏa lực tối đa để giành những chiến thắng có tính chiến lược, trước khi giải quyết chiến dịch bằng trận đánh cuối cùng. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ta chỉ có ưu thế tương đối hơn địch về một số mặt, song địch lại chiếm ưu thế hơn ta trên nhiều phương diện. So sánh riêng thời điểm Đông - Xuân 1953 - 1954: Về quân số (địch 48 vạn, ta 24 vạn bao gồm cả chủ lực và địa phương); về trang bị vũ khí: Địch hơn hẳn ta với 580 máy bay các loại, 391 tàu chiến, 25 tiểu đoàn pháo 155mm và 105mm, 10 trung đoàn, 6 tiểu đoàn và 10 đại đội tăng - thiết giáp. Ta 1 trung đoàn lựu pháo 105mm (24 khẩu), 1 trung đoàn sơn pháo 75mm, 1 trung đoàn pháo hỗn hợp (súng cối 82mm, DKZ 75mm và hỏa tiễn H6), 1 trung đoàn pháo cao xạ (72 khẩu 37mm và 72 súng máy 12,7mm).
Phương châm tác chiến ban đầu được xác định là "Đánh nhanh, thắng nhanh" được chuyển sang "Đánh chắc, tiến chắc" của Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã thể hiện một tư duy quân sự đầy sáng tạo ở tầm chiến lược, bảo đảm chắc thắng cho trận quyết chiến chiến lược. Phương châm "Đánh chắc, tiến chắc" là cơ sở để thực hiện nghệ thuật tác chiến đột phá lần lượt cụm cứ điểm địch. Đây là một phương pháp kinh điển, cũng đồng thời là giải pháp đúng đắn, sáng tạo trong chiến dịch tiến công để giải quyết một tập đoàn cứ điểm. Quân đội ta đã trưởng thành vượt bậc trong đánh công sự vững chắc, trong đó, sự chỉ đạo chiến thuật là rất linh hoạt, cụ thể và sáng tạo. Cách đánh trong chiến dịch tiến công này đã dẫn đến thắng lợi từng bước, tất yếu, không thể đảo ngược. Như vậy, với quyết tâm chiến lược sáng suốt và nghệ thuật quân sự sáng tạo, Điện Biên Phủ là trận hiệp đồng binh chủng lớn nhất và là chiến thắng vĩ đại nhất trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta. Với Chiến thắng Điện Biên Phủ, nhân dân ta đã phá tan kế hoạch Na-va cùng mọi mưu đồ chiến lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, góp phần quyết định vào thắng lợi của Hội nghị Giơ-ne-vơ về lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Tính sáng tạo trên được thực hiện trên nền nhân văn cao cả của dân tộc và cách mạng, đã bảo đảm cho tính sáng tạo được phát huy cao độ và hiệu quả nhất trong toàn bộ quá trình chuẩn bị và thực hành tác chiến của trận quyết chiến chiến lược. Chiến thắng Điện Biên Phủ là minh chứng hùng hồn cho sự đúng đắn của đường lối kháng chiến phù hợp với nguyện vọng và lợi ích cơ bản của nhân dân, phù hợp với quy luật phát triển của xã hội. Bởi nó đáp ứng mục tiêu trước mắt của dân tộc là quyền được sống, quyền được tự do, độc lập; mặt khác chỉ ra tương lai tươi đẹp của công cuộc xây dựng đời sống mới ấm no, hạnh phúc của toàn dân. Vì vậy, đã xây dựng nên "thế trận lòng dân" vững chắc, động viên được lực lượng to lớn của nhân dân tham gia kháng chiến, đặc biệt là tham gia vào trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. "Nhân dân ta đã hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Chính phủ "tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng, đã dồn sức người, sức của để chi viện cho Mặt trận Điện Biên Phủ... Nhân dân ta đã lập được một kỳ công hoàn toàn ngoài sự ước lượng của địch. Chúng ta đã bảo đảm việc cung cấp tiếp tế cho một lực lượng bộ đội rất lớn, tác chiến trên một mặt trận rất xa hậu phương, trong một thời gian dài, một việc mà quân địch cho là chúng ta không thể nào làm được".
Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ có một ý nghĩa lịch sử to lớn, là tác nhân quan trọng, trực tiếp đưa đến ký Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Kỷ niệm 10 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, Bác Hồ đã viết: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”. “Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới”. Trong bài viết đăng trên Tạp chí Cộng sản số ra ngày 7-5-2009, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: “Điện Biên Phủ là trận đánh tiêu diệt và bắt sống quân viễn chinh xâm lược lớn nhất, gọn nhất của Quân đội ta, dân tộc ta và của phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ 20”. Trong con mắt của bạn bè, của các lực lượng tiến bộ cách mạng trên thế giới thì “Chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm cho các dân tộc thuộc địa ngửng cao đầu” (phát biểu của Trưởng đoàn đại biểu Quân đội An-giê-ri Ô-man U-xê-đích thăm Việt Nam năm 1960). Hơn nữa, Chủ tịch Phi-đen Ca-xtơ-rô của Cu-ba đã đánh giá: “Từ trước đến nay chưa từng có một cuộc chiến tranh nào mà một nước nhỏ, kinh tế lạc hậu như Việt Nam mà vẫn đánh thắng Pháp và Mỹ. Đó là vô song. Trên thế giới chưa từng có. Trong lịch sử chưa từng thấy”. Giá trị nhân văn to lớn và sâu sắc của Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chính là sự chiến thắng của chính nghĩa đối với phi nghĩa, chiến thắng của khát vọng độc lập, tự do, quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc đối với các thế lực dã tâm xâm lược chà đạp lên quyền sống, quyền tự do, là những quyền bất khả xâm phạm của con người. Đồng thời, nó còn là khâu đột phá có ý nghĩa then chốt, mở đầu cho sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ, là nguồn cổ vũ lớn lao cho các dân tộc ở các nước thuộc địa trên thế giới đứng lên giành tự do, độc lập.
Tính sáng tạo và tính nhân văn như luận giải trên đã làm cho Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 không chỉ mang tầm vóc là một trong những chiến công hiển hách nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, mà còn là một biểu tượng sáng ngời của văn hóa quân sự Việt Nam truyền thống.
PGS, TS HÀ NGUYÊN CÁT