QĐND - Giữa cái bạt ngàn của núi rừng Trường Sơn, con người chợt muốn thu mình lại. Cảm giác đơn độc, nhỏ nhoi, chìm khuất! Chợt trước mắt hiện lên một con đường, dẫu chỉ như một lằn chỉ nhưng đủ để người đi ấm lòng. Bởi “lằn chỉ” ấy mang ý nghĩa của một biểu tượng - mốc giới quốc gia.

Chuyện lính cũ           

Lắc lư theo nhịp xe, ánh mắt của Thượng tá Hoàng Bá Phương, Chủ nhiệm Chính trị Lữ đoàn Công binh 28, Quân chủng Phòng không - Không quân, ánh lên nhiều cảm xúc. Trong đó có sự bồi hồi, dấu vết của những lo toan đã qua, những cung bậc cảm xúc lẫn lộn và tất nhiên, là niềm tự hào.

Tháng 9-2007, Thượng tá Phương lúc ấy đang giữ chức vụ Chính trị viên Tiểu đoàn 27, Lữ đoàn Công binh 28. Lữ đoàn được giao thực hiện 12km đường tuần tra biên giới thuộc địa phận xã Đăk Long, huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum. Tiểu đoàn 27 đang đóng tại Biên Hòa được điều động đi thực hiện nhiệm vụ. Là cán bộ chính trị nên ban đầu Phương không có tên trong danh sách đoàn đi. Thế rồi, do tình hình đơn vị neo người, tháng 3-2008, anh lại nhận nhiệm vụ dẫn quân vào Tây Nguyên.

Vượt hơn 700km từ Biên Hòa vào Kon Tum, ngay lập tức, lực lượng thi công 60 người của Tiểu đoàn 27 bắt tay vào xây dựng nơi ăn, chốn ở. Tìm được một cái chuồng bò của người dân bỏ hoang, anh em dọn dẹp đàng hoàng rồi căng bạt, đốt cho hết mùi hôi và ở tạm đó. Tiếp theo là việc đi khảo sát trong dân. Người dân ở Đăk Long chủ yếu quê ngoài Bắc vào làm kinh tế mới. Thương bộ đội vừa vất vả, vừa bỡ ngỡ với vùng rừng thiêng, nước độc, họ cho mượn dụng cụ để anh em lên rừng kiếm củi, dựng nhà. Dần dần, các lán trại cũng thành hình. Lực lượng thi công có được chỗ ở tạm… ổn định.

Ngay lập tức, Phương cho anh em bắt tay vào công việc. Lực lượng thi công phải mở 2 tuyến đường, mỗi tuyến dài 6km. Một là tuyến ngang, hai là tuyến đi qua đỉnh Trường Sơn. Tuyến ngang không quá vất vả. Còn tuyến lên đỉnh thì khó vô cùng. Từ khu vực đóng quân lên tuyến này phải đi mất hơn nửa ngày đường. Vì thế, lực lượng thi công lại phải hạ trại ngay tại địa điểm làm việc. Công việc đầu tiên họ thực hiện là dò mìn. Mìn và những vật liệu nổ sót lại sau chiến tranh ở khu vực này còn rất nhiều, chỉ một tích tắc thiếu thận trọng, hậu quả sẽ là khôn lường. Với kinh nghiệm dày dạn, cộng với việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định lao động và thêm một chút may mắn, lực lượng thi công của Tiểu đoàn 27 đã nhanh chóng làm sạch địa điểm thi công mà không để xảy ra thương vong dù nhỏ nhất.

“Bộ tứ” Nam, Ký, Quý và Cảnh (từ trái sang).

Công việc tiến hành trôi chảy nhưng công tác hậu cần thì gặp vô vàn khó khăn. Ở trại chính, anh nuôi phải đi xe gắn máy 30km ra thị trấn Ngọc Hồi để mua thức ăn. Ngày nắng thì bụi mịt mù, ngày mưa phải quấn xích vào lốp xe mới bò nổi. Nước thì phải lấy trên đồi xuống mới có mà dùng. Khó khăn chưa hết, hằng ngày lại phải có người đưa cơm cho lực lượng thi công tại hiện trường. Ban đầu neo người, anh em còn thuê được người địa phương. Thế nhưng chỉ được 3 ngày, vất vả quá, họ bỏ. Lại phải cắt cử người đi đưa cơm. Bữa cơm ở trại chính phải nấu xong từ 5 giờ sáng. Anh nuôi cho cơm vào bao ni-lông, buộc lại rồi nhét ba lô, thêm một ba lô nữa đựng thức ăn. Vác từ sáng, lên đến địa điểm thi công đã quá 12 giờ. Lúc ấy, bao cơm mở ra nát như cháo vì bị cọ xát và lắc quá nhiều. Người đem cơm lên mở ra, ngồi ăn cùng anh em, xong vác đồ về đến trại chính là trời tối sẫm. Nghỉ ngơi chút đỉnh rồi lại bắt đầu chuẩn bị cơm cho ngày hôm sau.
Nhớ lại những tháng ngày ấy, Thượng tá Phương bồi hồi: “Địa hình hiểm trở kinh khủng nhưng may mắn anh em đều an toàn. Trời đất thì cả ngày âm u, cả năm, cả tháng chẳng gặp gỡ được ai, toàn loanh quanh mấy anh em với nhau. Lúc đấy cũng chỉ biết động viên nhau cố gắng. Khó thế mà rồi cũng hoàn thành nhiệm vụ”.

Có lần đi làm nhiệm vụ, vừa lên đến đỉnh núi, mấy anh em Phương lại nhận được lệnh là xuống, sáng mai làm việc khác. Lúc xuống trời đã tối, rắn trong rừng thì vô vàn, đèn lại hết pin, anh em đành vừa đi vừa hát cho đỡ sợ, đỡ mệt.

Thời gian thi công đường tuần tra biên giới ở Kon Tum còn để lại trong Thượng tá Phương nhiều ấn tượng đẹp về tình quân - dân. Khi Phương dẫn lực lượng thi công đến, anh được gặp bà Mùi. Bà quê gốc ở Thái Bình. Phương vào nhà bà mượn cuốc, xẻng để phát hoang trồng rau. Không đắn đo, bà Mùi cho đội mượn luôn cả vườn nhà bà. Chưa hết, bà còn cho cả gạo nếp để đồ xôi, rồi mua con gà về để đội cúng động thổ.
Đặc biệt, lực lượng thi công được hưởng sự ấm áp của mối quan hệ truyền thống bộ đội - giáo viên. Ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, tiếng nói của giáo viên rất có trọng lượng nên họ đã giúp lực lượng thi công rất nhiều trong việc tuyên truyền để bà con hiểu ý nghĩa quan trọng của con đường tuần tra biên giới. Từ đó, bà con ủng hộ lực lượng thi công hết mình. Đáp lại tình cảm của các giáo viên, lực lượng thi công đã giúp cụm trường của xã Đăk Long xây dựng tường bao, cột cờ. Trong cuộc sống thường ngày, tình cảm giữa bộ đội và giáo viên ngày càng mật thiết.

Năm 2014, đoạn đường tuần tra biên giới do Lữ đoàn Công binh 28 đảm nhận hoàn thành, Thượng tá Phương cùng đồng đội tạm biệt vùng đất Tây Nguyên đầy nắng gió. Phương kể, nước mắt chia ly thấm đẫm vạt áo biết bao người.

Chuyện 4 chàng lính mới

 “Em ơi, em tên là gì?”. “Em tên là Phạm Văn Ký, 22 tuổi. Em ở Tiểu đội 3, Trung đội 2, Đại đội 7, Tiểu đoàn 30. Em nhập ngũ từ tháng 3-2015. Em quê ở Việt Yên, Bắc Giang. Em đã làm mấy công trình như nhà kho Gia Lâm, công trình hầm ở Hòa Bình…”.

Tôi hơi bất ngờ trước một bạn lính trẻ có phong cách nói chuyện cởi mở, lại đĩnh đạc đến vậy. Như nhận ra tâm trạng của tôi, Thượng tá Phương cười bảo, bộ đội của Lữ đoàn Công binh 28 thường xuyên làm công việc bên ngoài, gần dân, hay tiếp xúc với dân nên lời ăn, tiếng nói luôn được rèn luyện cẩn trọng.

Ký là Tiểu đội trưởng, phụ trách 10 người. Ký kể: “Khó khăn thì nhiều anh ạ. Chủ yếu là công việc nặng, vác bê đồ lên cao, lại ít người nên càng vất vả. Làm hầm thì vác đá là chuyện thường xuyên. Tất nhiên là cũng có nguy hiểm nhưng mình chú ý an toàn thì không sao, hơn nữa cũng có đồ bảo hộ hết. Ở thì bọn em được xây doanh trại là nhà ở cấp 4 đàng hoàng. Cũng có giường tầng. Thời tiết thì thất thường, mưa gió cũng suốt. Đêm thì lạnh với nhiều muỗi nên dễ bị bệnh. Nhưng cũng may, anh em sức đề kháng cao. Từ chỗ em làm ra đến khu dân cư xa vì họ sống thưa thớt. Thỉnh thoảng, tiểu đoàn tổ chức hoạt động văn nghệ. Em là tiểu đội trưởng nhưng kinh nghiệm cũng chưa có nhiều. Các anh tin tưởng nên phải cố gắng thôi ạ”.

Nhưng dường như Ký hơi khiêm tốn. Dù còn lún phún măng tơ nhưng khuôn mặt Ký đã toát ra vẻ cương nghị. Và thực tế, Tiểu đội 3 dưới sự chỉ huy của Ký luôn là đội thi công dẫn đầu trong các phong trào thi đua của Trung đội 2.

Ở Lữ đoàn Công binh 28, có tới 60% chiến sĩ quê ở Bắc Giang. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi chiến sĩ trẻ thứ hai tôi gặp lại là người Bắc Giang. Binh nhất Vũ Trọng Cảnh ở Tiểu đội 1, Trung đội 1, Đại đội 7, Tiểu đoàn 30. Cảnh 25 tuổi, đã tốt nghiệp THPT, từng đi làm rồi tình nguyện nhập ngũ tháng 9-2015. Ban đầu, như bao đồng đội khác, Cảnh cũng cảm thấy hơi ngài ngại khi bắt tay vào công việc đào hầm vừa nặng nhọc, vừa nguy hiểm. Nhưng rồi, nhận được sự khuyến khích, động viên của lớp đàn anh đi trước, Cảnh dần quen với công việc này. Để đến hôm nay, dù thời gian chưa dài nhưng Cảnh đã trở thành một “chuyên gia” đào hầm của Tiểu đội 1. Hơn thế, Cảnh còn luôn làm anh em khác ghen tị vì cậu có một người yêu đón đợi. Người yêu của Cảnh làm công việc thống kê. Cô ấy hẹn, Cảnh hoàn thành nghĩa vụ, hai người sẽ tổ chức đám cưới.

Hóng chuyện của “đàn anh”, binh nhất Nguyễn Văn Quý “bày tỏ” nỗi lòng ấm ức. Số là cũng đã 21 tuổi mà Quý vẫn chưa có mảnh tình vắt vai. Trong khi theo đánh giá của nhiều cô gái, Quý có vẻ ngoài mạnh khỏe, ưa nhìn, tính tình lại hồ hởi. Thôi thì đành chờ duyên!

Trước khi nhập ngũ, Quý đi làm cho một công ty may mặc. Lúc nhận được giấy báo nhập ngũ, em cũng nghĩ tiếc công việc đang ổn định. Nhưng rồi bố mẹ động viên, thế là nghe, đi khám tuyển tắp lự. Quý cũng là một “chuyên gia” đào hầm. Nhưng trong con mắt lạc quan của Quý, “làm hầm vất vả một tí nhưng bao giờ cũng mát”.

Khuôn mặt đỏ bừng, mồ hôi chảy dài, tay chân tất tả, binh nhất Thân Văn Nam rất ra dáng “anh nuôi”. Lúc ở đơn vị, Nam phụ ở bếp ăn chung. Đi công trình lẻ, mình Nam… làm tất. Ngoài bếp núc, xoong chảo, thứ Nam luôn “cắp nách” trong mỗi chuyến đi xa là cái máy lọc nước. Em bảo, nguồn nước tại các địa điểm thi công thường không bảo đảm vệ sinh nên luôn phải có cái máy lọc. Đến mỗi địa điểm, việc đầu tiên của Nam là dựng lán bếp. Việc kế tiếp luôn là kiếm củi đun. Rồi là tìm nguồn nước. Khó khăn, thiếu thốn đủ bề nhưng Nam vẫn tả xung hữu đột, bảo đảm cơm dẻo canh ngọt cho ít nhất 20 đồng đội một bữa. Tôi đùa: “Đã bao giờ cơm khê?”, Nam cười hồn hậu: “Dạ, cũng thỉnh thoảng anh ạ. Đun bếp củi mỗi lúc một khác, lửa không ổn định". "Sau này hết nghĩa vụ, em có định mở quán cơm không?”. “Hi, em chưa biết!”.

5 cán bộ, chiến sĩ tôi gặp ở Lữ đoàn Công binh 28 không đại diện hết cho những con người nơi đây. Những câu chuyện của họ cũng chỉ là một mảng rất nhỏ trong cuốn truyện lớn của cả lữ đoàn. Nhưng ít nhiều họ cũng là những con người đã và đang xây dựng nên truyền thống của một đơn vị anh hùng sinh ra đúng ngày sinh của Bác.

Bài và ảnh: HUY ĐĂNG