Khúc cạn dòng...
“Dô khoan, dô huầy, ấy dô khoan là dô huầy”… Điệu hò sông Mã khỏe khoắn, bát ngát ngân nga trong tôi trên đường ngược lên phía tây xứ Thanh. Nhưng những bát ngát, trong xanh ấy trong tôi bỗng như mắc cạn khi từng khúc sông Mã hiện ra trơ tận đáy. Những thác ghềnh phơi toen hoẻn trong nắng đông vàng ám. Có đoạn, ô tô còn đi qua lòng sông.
Sông Mã chảy qua tỉnh Thanh Hóa có chiều dài khoảng 242km. Sông hùng vĩ chảy len lỏi qua đồi núi, thác ghềnh nên tiếng nước nhiều nơi gầm như trống trận giữa đại ngàn. Hai bên triền sông là nơi sinh sống lâu đời của các dân tộc anh em như Thái, Mường, Kinh, Dao… với nhiều phong tục, tập quán độc đáo. Dòng sông là cảm hứng cho thơ ca, nhạc, họa… với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Nổi tiếng nhất có lẽ là điệu hò sông Mã. Dòng sông còn được các nhà chuyên môn đánh giá là có tiềm năng thủy điện với sản lượng lên đến hơn 12 tỷ kWh.
Tiềm năng đã biến thành hiện thực khi các nhà máy thủy điện lần lượt mọc lên. Theo quy hoạch, Thanh Hóa có đến 14 nhà máy thủy điện. Lớn nhất là thủy điện Trung Sơn có công suất lắp đặt 260MW, tiếp đến là thủy điện Cửa Đạt 97MW, thủy điện Hồi Xuân 102MW. Riêng huyện Quan Hóa có tới 3 nhà máy thủy điện: Trung Sơn, Thành Sơn, Hồi Xuân. Xuôi về huyện Bá Thước chừng hơn hai chục cây số lại có hai nhà máy thủy điện Bá Thước 1 và Bá Thước 2… Rồi Cẩm Thủy 1, Cẩm Thủy 2…, mỗi nhà máy cách nhau chưa đến hai chục cây số.
Theo các nhà chuyên môn, thủy điện góp phần đáp ứng nhu cầu thiếu hụt điện năng nói chung, nhưng mặt trái đem lại là sự vạm vỡ của dòng sông đã bị chia cắt, bóp nghẹt, trở nên yếu đuối. Có những khúc sông cạn với mực nước chết, chỉ còn sỏi đá lộ thiên.
    |
 |
Phía dưới nhà máy thủy điện, dòng sông cạn trơ đáy. |
Bi hài chuyện xả lũ
Về sống với người dân vùng thủy điện mới thấy hết những hy sinh của họ cho những dòng điện thắp lên. Những câu chuyện nơi đây nghe mà cười ra nước mắt.
Trên đường dẫn chúng tôi đi đến vùng di dân thủy điện của huyện Bá Thước, các cán bộ huyện đã kể cho chúng tôi nghe câu chuyện thật mà như bịa. Vào mùa mưa, khi thủy điện xả lũ, nước ngập cả vào thị trấn. Nhiều người dân không có đủ thông tin đã truyền tai nhau là vỡ đập thủy điện Trung Sơn. Thế là ngay trong đêm, tất cả nháo nhào, cuống cuồng thu dọn đồ đạc, gà, vịt, lợn… chạy dạt lên núi. Một cán bộ đang đưa con đi khám bệnh ngoài Hà Nội nghe tin liền gọi điện về cho mẹ, hướng dẫn cách bắt lợn đưa lên núi, xong anh mới gọi về huyện hốt hoảng: “Vỡ đập Trung Sơn rồi phải không chú?”. Anh cán bộ huyện nghe xong cười phá lên: “Em vẫn đang trực trong ủy ban huyện để hướng dẫn bà con đây. Vỡ đập sao em ngồi đây được!”.
Quy luật tích nước, mùa mưa xả lũ khi đầy như một lẽ thường tình của thủy điện. Nhưng với những người dân thị trấn Hồi Xuân, huyện Quan Hóa lại như nỗi ám ảnh. Anh thanh niên lái xe đưa chúng tôi đi trên con đường xuôi dòng sông Mã và chỉ vào từng điểm ngập khi xả lũ. Thị trấn Hồi Xuân nằm ngay bên sông nên khi nước dâng ngập lên đường là giao thông bị chia cắt. Thường thì phải vài ngày nước mới rút. “Chị có thấy cây cầu trước mặt và cột đo mực nước kia không. Nó cao 2m đấy. Nhưng khi xả lũ, nước ngập lút cả cột. Sợ nhất là nửa đêm đang ngủ mơ mơ màng màng mà nghe tiếng còi rú báo động xả lũ. Lúc đó, không nhanh chân chạy đi thì không biết sẽ thế nào. Vì còi rú xong là xả lũ”. Thanh niên này cho biết thêm, dù đã chứng kiến xả lũ nhiều lần nhưng mọi người vẫn chưa quen và luôn sống trong nỗi lo nơm nớp.
Một lãnh đạo huyện Bá Thước chia sẻ với chúng tôi câu chuyện sông Mã cạn dòng và thủy điện xả lũ với tâm trạng khó tả. Từ khi thủy điện tích nước làm ảnh hưởng đến cuộc sống người dân về mùa khô. Đến mùa mưa thì bà con ở thị trấn Cành Nàng phải chạy lũ suốt và xác định sống chung với lũ.
Loay hoay sinh kế
Men theo triền sông Mã, chúng tôi đến vùng di dân của các nhà máy thủy điện. Trên đường đi, xe qua thủy điện Thành Sơn. Khu vực này có khoảng 1,5km đường rất xấu, chi chít “ổ gà, ổ voi”, xe chúng tôi đi rất chậm và cứ trườn lên, trườn xuống theo mạch đường nham nhở. Lái xe nói: “Hôm nay trời nắng còn lựa được đường mà đi. Những hôm trời mưa nước ngập thì cứ nhắm mắt đi bừa”. Tôi hỏi: “Đường đi nguy hiểm thế này mà không ai thắc mắc và huyện không biết hay sao?”. Anh bảo: “Bà con có thắc mắc nhiều lần, họ còn cắm biển đề nghị sửa đường kia kìa”. Anh chỉ tay vào mấy nhà dân bên đường.
Lặn lội về với bà con nhiều ngày, chúng tôi nhận ra nhiều điều. Nhìn bề ngoài, cơ sở hạ tầng, nơi ăn chốn ở của bà con tương đối ổn định, nhà cửa khang trang. Mỗi hộ được cấp trung bình 700m2 đất ở và đất trồng trọt. Tuy nhiên, sinh kế lâu dài ở các điểm di dân thủy điện vẫn là bài toán hóc búa. Hầu hết những người trẻ đang độ tuổi lao động đều làm ăn xa. Trong bản hầu như chỉ thấy người già và trẻ con. Chuyện ly hương kiếm sống không phải là kế hay.
Vào điểm di dân bản Ta Bán, chúng tôi ngỡ ngàng trước cảnh quan đẹp đẽ nơi đây. Nhà cửa, đường sá rất sạch đẹp, khang trang, cây cối tốt tươi. Các khóm hoa được trồng rất khéo đang đua nhau khoe sắc, nhìn như điểm du lịch cộng đồng. Vào nhà dân, chúng tôi thấy hầu như bà con đều hài lòng với cuộc sống hiện tại. Tuy nhiên, theo Trưởng bản Phạm Bá Mạo, họ rất muốn được đào tạo để ổn định sinh kế lâu dài vì đất trồng trọt là đất xả thải của nhà máy thủy điện, không trồng được cây gì. Từ gia đình chị Phạm Thị Tìm cũng như gia đình ông Tương, ông Mần, ông Thụ… hàng xóm quanh nhà chị và nhiều người dân đều mong muốn như vậy.
Lãnh đạo xã Trung Sơn (huyện Quan Hóa) cho chúng tôi biết, dự án ảnh hưởng đến hơn 200 hộ dân của hai bản. Người dân đã được hỗ trợ tiền đền bù, xây dựng trường học, đường, điện, nhà văn hóa… tốt hơn trước. Để hạn chế ly hương, cần đào tạo nghề và tìm việc làm cho người dân. Chính quyền địa phương cũng đang nghiên cứu nuôi cá lồng lòng hồ cùng với phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng.
Với bản Sa Lắng, xã Thanh Xuân (huyện Quan Hóa) là điểm di dân của thủy điện Hồi Xuân, họ không được may mắn như dân bản Ta Bán. Các công trình hạ tầng ở đây hãy còn dang dở. Đường sá, nhà cửa vẫn ngổn ngang. Gạch đá, vật liệu xây dựng chất đầy từ ngoài vào trong khiến việc đi lại, sinh hoạt khó khăn. Vẫn còn 8 hộ nữa chưa được di dời về nơi mới. Chị Hà Thị Hương cho biết, người của thủy điện tập hợp đất đá và để đây lâu lắm rồi mà không làm kè. Nhà tôi ở sát mép sông nên rất sợ nước dâng, làm sụt lở đất, trôi nhà. Không biết đến khi nào họ mới quay lại hoàn thiện.
Chúng tôi đem những điều mắt thấy tai nghe ở vùng di dân thủy điện đến gặp Bí thư Huyện ủy Quan Hóa Phạm Bá Diệm. “Rất thương dân”-giọng ông nghẹn lại. Thủy điện Hồi Xuân xây dựng kéo dài hơn 10 năm. Khu tái định cư, đền bù cho dân, cho các công trình chưa xong, do thủy điện gặp khó khăn về tài chính. Còn phần 1,5km đường xấu thuộc trách nhiệm thủy điện Thành Sơn. Công ty này của ông Phan Huy Lệ cũng bất hợp tác với chính quyền địa phương. Vừa rồi, tỉnh giao cho Sở Giao thông vận tải tỉnh Thanh Hóa làm nhưng chưa có nguồn tiền. Tôi thấy hơi lạ, sao Thanh Hóa lại đứng ra gánh trách nhiệm thay công ty tư nhân, khi rõ ràng trách nhiệm thuộc về phía công ty kia?
Tiếp xúc với lãnh đạo các cấp ở huyện, chúng tôi nhận thấy sự trăn trở về sinh kế ổn định lâu dài cho bà con. “Chúng tôi đã cố gắng bằng nhiều cách nhưng cũng chỉ đạt được giới hạn nhất định. Chúng tôi đề xuất, nên dùng một phần nguồn thu ngân sách từ thủy điện tái đầu tư cho bà con. Phải lấy nó nuôi nó thì mới là kế sách lâu dài. Tiếc rằng, hiện nay chưa có chủ trương này”. Chủ tịch UBND huyện Quan Hóa Trương Nho Tự trăn trở nói.
Huyện Bá Thước có hai nhà máy thủy điện nhưng số lượng di dân không lớn, chỉ vài chục hộ cho cả hai nhà máy. Các hộ di dân được sắp xếp chỗ ở gần nơi cũ là thôn Chảy Kế (xã Thiết Kế) và thôn Chiềng Ai (xã Hạ Trung). Nhà ở của dân và hạ tầng các nơi này đều ổn định. Tuy nhiên, bài toán sinh kế vẫn đang được lãnh đạo nơi đây loay hoay tính toán.
“Trước kia, ở ngoài bãi đất phù sa màu mỡ, rộng mênh mông, nhà tôi trồng bầu, bí, su hào, bắp cải… hoa màu tốt tươi. Nhưng nay về đây đất đai cằn cỗi không trồng được gì. Con cái phải đi làm ăn ngoài Hà Nội. Bản thân chúng tôi làm thuê cho xưởng đũa với tiền công 130.000 đồng cho 9 tiếng làm việc mỗi ngày”, chị Thảo, chị Tuyến (thôn Chảy Kế) vừa nói vừa nhìn ra hướng bờ sông Mã luyến tiếc.
Theo thông tin từ Phó chủ tịch UBND huyện Bá Thước Võ Minh Khoa, huyện đang nghiên cứu để đưa các sản vật nổi tiếng của địa phương như vịt Cổ Lũng, cây dược liệu, cây măng ngọt, quýt hôi… nuôi, trồng ở những vùng phù hợp. Tuy vậy, đầu tư nông nghiệp cũng rất rủi ro, được mùa thì lại mất giá… Vầng trán của vị lãnh đạo huyện chợt nhíu lại. Tôi hiểu, các anh đã và đang rất cố gắng. Nhưng câu chuyện sinh kế của vùng thủy điện không dễ dàng giải quyết được trong ngày một ngày hai. Rất cần có sự quan tâm và đầu tư của chính quyền các cấp, vừa phát huy những lợi ích của các công trình thủy điện, vừa hạn chế rủi ro do những công trình này đem lại để người dân có cuộc sống ngày càng tốt hơn.