LTS: Bài viết của TS Phí Văn Kỷ, người có nhiều năm tham gia đoàn công tác của chương trình 327 kể chuyện về Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên khi làm đặc phái viên của Chính phủ về chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc. Ông thường cuốc hố, bỏ phân, tưới nước cùng mọi người, không cần lễ nghi cầu kỳ. Một địa phương đã từng bị ông phê bình vì tổ chức lễ trồng cây quá linh đình, tốn kém...
Tôi vinh dự có thời gian đi công tác cùng Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, khi ông là đặc phái viên của Chính phủ đặc trách chương trình quốc gia 327 về phủ xanh đất trống, đồi núi trọc. Những ngày ấy, chúng tôi theo ông đi khắp miền đất nước, vượt đèo, lội suối, đội nắng mưa, xem xét tình hình và tìm giải pháp phủ xanh đất trống đồi trọc. Ông xót xa thấy năm 1945 độ che phủ của rừng còn 50%, đến lúc đó chỉ còn 27%. Tận mắt chứng kiến trận lũ Mường Lay, sập núi Cao Bằng, sập đường vì lũ bùn Sơn La, triều cường miền Trung, ông rất buồn: Chiến tranh đã hủy diệt rừng, hòa bình rồi mà phá rừng vẫn tăng…
Chúng tôi đi theo ông trở lại Trường Sơn, nơi cây rừng bén xanh tái sinh, nơi cỏ cây trụi đen vì chất độc giặc Mỹ rải cách hơn 20 năm. Nhiều lúc chúng tôi thấy ông lặng đi, tôi không dám nhìn vào mắt ông…
 |
Chương trình 327 trong 5 năm, nhiều lần được Chính phủ bổ sung các mục tiêu. Khởi đầu, chương trình lấy cây lâm nghiệp phủ xanh đất trống đồi trọc, sau này được tính cả cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm, trồng cỏ chăn nuôi đại gia súc. Lúc đầu không có vốn đầu tư xây dựng hạ tầng nông thôn về sau được bổ sung. Mục đích của chương trình hướng tới giữ rừng, phát triển rừng và bảo vệ rừng trên cơ sở tổ chức cho đồng bào dân tộc gắn với rừng, định canh định cư để đồng bào dân tộc có đời sống ổn định, không phá rừng, linh hoạt với đặc điểm của từng địa phương. Ông cùng với các bộ, ngành liên quan tìm hiểu, đề xuất, trình Chính phủ phê duyệt các mục tiêu từng năm đi đúng hướng. Thời kỳ này, lúc nhiều nhất có tới 900 dự án của các địa phương và của các nông, lâm trường quốc doanh. Vốn hàng năm Nhà nước đầu tư 400- 500 tỉ đồng/năm.
Dạo ấy độ che phủ rừng ở Tây Bắc chỉ 9%-11%. Qua Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu chỉ thấy núi đồi trọc lốc. Ông bảo, ngày trước đánh Điện Biên Phủ, không có rừng xanh thì làm sao hàng vạn quân, dân công, thanh niên xung phong hành quân ngày đêm tránh được máy bay giặc Pháp đánh phá? Làm sao kéo pháo vào trận địa? Mấy chục năm nay chẳng trận mạc gì mà rừng bị phá sạch. Đồng bào dân tộc ở đây thì nghèo quá, bữa đói, bữa no, áo không đủ ấm… Ông day dứt: “Rừng núi là chiếc nôi của cách mạng, chở che cho cách mạng, bà con các dân tộc sắn khoai nuôi cách mạng. Các đồng chí tính cách gì giúp đồng bào có cái ăn, cái mặc mà không phá rừng?”. Đi đến địa phương nào cũng vậy, nghe tỉnh báo cáo hiện trạng rừng, nghe kiến nghị, phương hướng, ông đều hỏi cặn kẽ, rồi cùng đi kiểm tra. Ông khuyên các địa phương lựa chọn cây bản địa gỗ quí, trồng cây kinh tế và tìm kiếm thị trường cho lâm sản ngoài gỗ. Ông hỏi kinh nghiệm của bà con cách ươm giống cây trám đen, trám trắng. Ông hỏi kỹ tại sao cây trẩu ở Sơn La trồng không có quả? Ông cùng lãnh đạo địa phương và đoàn công tác phát động trồng cây ở Bát Sát (Lào Cai), Hồng Bàng (Yên Bái), các đồn biên phòng Hà Giang, ở Điện Biên Phủ, di tích cách mạng Tân Trào, Đắc Lắc, Lâm Đồng… Ông cũng cuốc hố, bỏ phân, tưới nước, mồ hôi ướt đẫm bộ quân phục. Ông không cần lễ nghi cán xẻng, cán cuốc cuốn hoa, tay mang găng...
Có lần trên đường đi công tác, qua một tỉnh miền núi vào những ngày đầu xuân thấy công an huýt còi, cấm đường, bắt xe ngược chiều dẹp bên vệ đường. Ông cho bảo vệ xuống hỏi thì biết địa phương đón đoàn Trung ương về để hôm sau dự lễ trồng cây. Ông cho rẽ vào sở lâm nghiệp hỏi lễ trồng cây tổ chức thế nào, họ báo cáo thành phần quan chức, lo phát mấy trăm suất bánh mì, nước uống. Ông nhẩm tính và lắc đầu: “Thế này giá của một cây trồng có lẽ bằng cây gỗ lớn!”. Đi công tác với ông, ăn cơm nắm, nhỡ bữa là chuyện thường, nhiều lần đói méo mặt. Có lần, lên Đồn biên phòng Cha Lo, đói quá, các chiến sĩ ở đây cũng chả có gì, hò nhau nhổ sắn luộc ăn. Ấy thế mà tình cảm vui như hội. Có lần đi từ Sài Gòn lên Lâm Đồng, xe chúng tôi hỏng phải sửa dọc đường, hơn mười giờ đêm mới đến Đà Lạt, ông vẫn chờ cơm.
Đầu năm 1996, chương trình 327 đã cơ bản hoàn thành và chuyển hướng đầu tư phát triển trên diện rộng với mục tiêu trồng nhiều cây lâm nghiệp. Chương trình 661 ra đời. Sau này, ông được cử làm cố vấn đặc biệt của Thủ tướng về xây dựng Đường Hồ Chí Minh. Nhiều lần, tôi và các anh Đỗ Văn Hòa, Cao Vĩnh Hải được theo Bộ trưởng Nguyễn Công Tạn đến mừng sinh nhật ông. Lần nào ông cũng hỏi về hiệu quả của chương trình 327. Tôi còn được ông gửi tặng cuốn hồi ức “Đường xuyên Trường Sơn”, với lời đề tình cảm: “Thân tặng chú Phí Văn Kỷ, người tâm huyết với chương trình 327”.
Đầu những năm 90 của thế kỷ trước, độ che phủ của rừng cả nước chỉ 27%, nay cuối thập niên đầu thế kỷ 21 đã đạt 40%. Màu xanh trở lại trên những khu rừng trồng từ chương trình 327, có công lao rất lớn của ông, một “vị tướng của rừng xanh”…
TS Phí Văn Kỷ