Mục tiêu phù hợp

Trong Chiến lược, đến năm 2030, mục tiêu cho thể thao thành tích cao (không tính bóng đá) lần lượt là duy trì vị trí trong nhóm 3 đoàn dẫn đầu tại các kỳ SEA Games và trong nhóm 20 đoàn dẫn đầu các kỳ Asian Games, trong đó đoạt từ 5 đến 7 huy chương vàng (HCV) tại các kỳ Asian Games; có huy chương tại các kỳ Olympic và Paralympic. Định hướng đến năm 2045, thể thao thành tích cao thường xuyên duy trì vị trí trong nhóm hai đoàn dẫn đầu ở các kỳ SEA Games, trong nhóm 15 đoàn dẫn đầu tại các kỳ Asian Games, trong nhóm 50 đoàn dẫn đầu tại các kỳ Olympic.

Nhìn vào mục tiêu trên, dễ thấy là đều có sự an toàn nhất định; trong đó, các mục tiêu đến năm 2030 đều có sự tính toán kỹ lưỡng. Đó là điều đã được thể hiện rõ ở các cuộc làm việc trước đây giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch với Cục TDTT. Việc nâng lên đặt xuống các mục tiêu được thực hiện kỹ lưỡng. Như mục tiêu trong nhóm 3 đoàn dẫn đầu tại các kỳ SEA Games (thực tế là từ nay đến năm 2030 còn 3 kỳ SEA Games vào các năm 2025, 2027, 2029) cũng đã được kiểm nghiệm. Từ năm 2003 đến nay, chưa bao giờ thể thao Việt Nam “văng” khỏi nhóm 3 đoàn dẫn đầu tại SEA Games, thậm chí có 3 lần xếp nhất toàn đoàn (2003, 2022, 2023). 

leftcenterrightdel

Bắn súng tiếp tục là chủ lực của thể thao Việt Nam trong giai đoạn tới. Ảnh: HỮU TRƯỞNG 

Trong khi đó, mục tiêu giành từ 5 đến 7 HCV ở các kỳ Asian Games (từ nay đến năm 2030 còn hai kỳ Asian Games vào năm 2026 và 2030) cũng được xem là phù hợp với thực lực của thể thao Việt Nam. Ở hai kỳ Asian Games gần nhất, các vận động viên (VĐV) Việt Nam giành 7 HCV (Asian Games năm 2018: 4 HCV; Asian Games năm 2023: 3 HCV). Với những gì đã làm được trong quá khứ và thực lực hiện tại, các nhà quản lý có cơ sở để đặt ra mục tiêu trên.

Chỉ riêng mục tiêu ở Olympic trong giai đoạn đến năm 2030 (thực tế chỉ còn Olympic năm 2028) được xem là khó với thể thao Việt Nam khi thành tích không thực sự ổn định. Như năm 2016, thể thao Việt Nam từng giành 1 HCV, 1 huy chương bạc để xếp hạng 48 toàn đoàn nhưng ở cả hai kỳ Olympic gần đây, các VĐV Việt Nam đều trắng tay. Cũng vì thế, mục tiêu dành cho thể thao Việt Nam ở Olympic thực sự khiêm tốn, chỉ ở mức tối thiểu là giành huy chương.

Theo lộ trình, khi thể thao Việt Nam hội tụ đủ nguồn lực thì mới hướng đến những mục tiêu cao hơn, khó hơn trong định hướng đến năm 2045. Lúc đó, chỉ riêng mục tiêu tại Olympic cũng thực sự khó là đứng trong nhóm 50 đoàn dẫn đầu. Để đạt mục tiêu này, thể thao Việt Nam phải giành HCV. Nếu không, khả năng cao là không hoàn thành chỉ tiêu lọt vào tốp 50. Gần đây nhất, ở Olympic Paris 2024, đoàn xếp thứ 50 là Bồ Đào Nha cũng đã giành 1 HCV, 2 huy chương bạc, 1 huy chương đồng. 

Cần đột phá trong cách làm

Ngay trong Chiến lược, Chính phủ đã chỉ ra giải pháp thực hiện, trong đó, phải khẩn trương hoàn thiện việc phân nhóm các môn, nội dung thi đấu và lực lượng VĐV, bảo đảm phù hợp với thế mạnh, điều kiện của nước ta và bám sát xu thế của thế giới; nhanh chóng xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp, khả thi về đầu tư, huy động nguồn lực, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, khuyến khích, chăm sóc, đãi ngộ với từng nhóm môn, lực lượng VĐV. Ưu tiên nguồn lực, đầu tư trọng điểm, chuyên sâu cho lực lượng VĐV có khả năng giành huy chương tại Asian Games và Olympic.

Chính phủ cũng giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch triển khai cụ thể việc phân nhóm các môn, nội dung thi đấu theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền; chủ trì xây dựng chương trình phát triển các môn thể thao trọng điểm chuẩn bị tham dự các kỳ Olympic và Asian Games trong giai đoạn tới, trình Thủ tướng Chính phủ trong năm 2025...

Thực tế, việc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng Chương trình phát triển các môn thể thao trọng điểm chuẩn bị tham dự các kỳ Olympic và Asian Games trong giai đoạn tới để thực hiện các mục tiêu đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 cũng không quá phức tạp. Quan trọng vẫn là cách thực hiện, định hướng cho Cục TDTT cũng như các đơn vị liên quan, trong đó liệu có sự đột phá về đầu tư cho VĐV trọng điểm, nội dung trọng điểm, môn trọng điểm phục vụ mục tiêu Olympic và Asian Games hay không? Rồi việc đầu tư cơ sở vật chất phục vụ tập luyện, phục hồi sau tập luyện, chế độ dinh dưỡng cho VĐV khi tập trung đội tuyển quốc gia sẽ thực hiện ra sao hay vẫn cứ bình bình như hiện tại khi VĐV luôn thiếu đội ngũ bác sĩ, chuyên gia vật lý trị liệu, bác sĩ tâm lý, bác sĩ dinh dưỡng chuyên biệt.

Chiến lược chỉ ra những điều trên đây cho thấy, những nhà quản lý cũng nhận thức được vấn đề. Không kể, cơ chế huy động các nguồn lực xã hội hóa để đầu tư cho VĐV trọng điểm cũng cần được chăm chút tốt hơn hiện nay... Trong Chiến lược cũng đề cập đến việc cần phải khuyến khích, tạo điều kiện cho hiệp hội thể thao quốc gia, các doanh nghiệp tham gia xây dựng, vận hành các cơ sở đào tạo VĐV; bảo trợ, tài trợ cho các đội tuyển thể thao, VĐV tài năng...

Rõ ràng, những mục tiêu trong Chiến lược không quá tầm với thực lực của thể thao Việt Nam. Nhưng quan trọng hơn cả vẫn là cách thức thực hiện, bắt đầu từ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Cục TDTT rồi đến các địa phương, các liên đoàn, hiệp hội thể thao quốc gia. Thành bại của cả một Chiến lược cũng từ đây mà ra.

MINH AN