Đó là hình ảnh của sân khấu hiện nay. Hiện trạng của sân khấu tuồng, chèo, cải lương, kịch nói đều có chung những khó khăn, trở ngại là vắng khán giả. Người làm sân khấu ai cũng hiểu điều này: Sự trình diễn phải có người xem, người thưởng thức. Không có người xem, người thưởng thức thì mọi hoạt động nghệ thuật đều trở nên vô nghĩa. Do vậy mà sân khấu đang tìm đến người xem, đang làm mọi cách để thu hút người xem. Công việc này người làm sân khấu đang tiến hành và quá trình này diễn ra vô cùng gian nan bởi không dễ dàng đạt ngay được hiệu quả. Chúng ta đã có nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng toàn diện của sân khấu, nhưng kết quả chưa cao vì cuối cùng vẫn là khán giả có chịu đến với sân khấu không?
Theo chúng tôi, có lẽ nên nhìn vào mối quan hệ giữa “tích” và “trò” mà ông bà ta đã từng nêu lên: “Có tích mới dịch nên trò”. Thời xưa là như vậy. Thời nay cũng thế, chỉ khác cái tên gọi. Xưa cho là tích thì nay là cốt truyện, là nội dung. Xưa gọi là trò thì nay là diễn liên quan đến diễn viên và đạo diễn. Nếu tích và trò đều hay thì sẽ hấp dẫn, thu hút được khán giả. Nhưng điều đáng tiếc là cái vở diễn của chúng ta ít khi đạt được sự hài hòa giữa tích và trò, giữa nội dung và hình thức, giữa tác giả và diễn viên, đạo diễn.
Thử có cái nhìn rộng hơn với sự trình diễn sân khấu hiện nay, có thể thấy một dấu hiệu khá rõ: Đó là các sân khấu tuồng, chèo nặng về trò diễn. Còn các sân khấu kịch, cải lương lại nặng về tích kể. Sân khấu lại đòi hỏi phải hoàn thiện giữa tích và trò. Khi không thỏa mãn được sự mong muốn đó thì họ-khán giả-chưa đến với sân khấu.
Muốn có một vở diễn trên sân khấu, ai cũng biết phải có sự tham gia của nhiều thành phần sáng tạo, trong đó nổi bật 4 thành phần chính là: Tác giả kịch bản văn học, đạo diễn dàn dựng, diễn viên biểu diễn và khán giả thưởng thức. Cũng từ cấu trúc này “đẻ” ra các nguyên nhân và giải pháp cho các cuộc khủng hoảng sân khấu, chúng tôi xin được trình bày cụ thể như sau:
Về khủng hoảng kịch bản
Kịch bản là do tác giả sáng tác. Chúng ta không thiếu tác giả. Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam có một đội ngũ sáng tác hùng hậu với nhiều tên tuổi, nhiều thế hệ già trẻ của các loại hình truyền thống (tuồng, chèo, cải lương cổ) và hiện đại (kịch nói, cải lương xã hội). Hơn nữa được Nhà nước và xã hội quan tâm đã mở nhiều trại viết, nhiều cuộc tọa đàm trao đổi những kinh nghiệm sáng tác, những kỹ năng thể hiện. Về “lượng” chúng ta có khá nhiều kịch bản, đặc biệt là hai loại hình cải lương và kịch nói, nhưng về “chất” thì rất hiếm vở hay do đạt được sự hài hòa giữa tích và trò. Đội ngũ sáng tác trẻ có nhiều ưu điểm về tư duy sáng tạo, nhiều tìm tòi cách tả mới, nhiều cái lạ trong hình thức có tính khám phá, song do vốn sống chưa nhiều nên dễ rơi vào cách xử lý mang tính áp đặt, lý trí, thậm chí đi vào cách làm an toàn nên đã “chùi bớt”, “mài nhẵn” những hiện thực gai góc, thô nháp được phản ánh. Những xung đột trên sàn diễn chưa phản ánh được đúng như hiện thực đã xảy ra ngoài đời. Cũng có nhiều tác giả trẻ cố gắng phản ánh trung thực các hiện thực dữ dội ngoài đời trong tác phẩm diễn, nhưng qua các góp ý “an toàn” cũng bấm bụng “gọt giũa” cho tròn tác phẩm.
Một khía cạnh khác là sức ỳ của thói quen khiến một số tác giả không thích nghi được với cái mới, cái lạ. Nói một cách khác là khi ta chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường có sự định hướng thì các tác giả không theo kịp các chuyển động xã hội với một tốc độ nhanh. Nhiều giá trị mới làm thay đổi cách nhìn con người và sự việc đã không được các tác giả quan tâm đầy đủ.
Sự thay đổi lớn lao trong đời sống xã hội kéo theo sự thay đổi khán giả cùng với các thị hiếu, các sở thích của người xem đối với những gì được sáng tạo trên sân khấu. Các tác giả chưa hòa mình vào những biến đổi lớn lao ấy nên trong quá trình sáng tạo người viết chạy theo thói quen cũ, những thủ pháp cũ, thậm chí những thành công cũ.
Kịch nói do bản chất hành động của nó, đã kịp thời phản ánh cái hiện thực mới mẻ của thị trường, đã nêu lên được những cảnh kịch gai góc, chân thực, phản ánh được phần nào những góc khuất đầy kịch tính, đầy xung đột, trong đó cái xấu, cái ác được miêu tả với một góc nhìn chân thực. Tuy nhiên, sân khấu kịch vẫn chưa xây dựng được hình tượng nhân vật của thời đại như chúng ta đã từng thành công trong xây dựng hình tượng người chiến sĩ thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ. Con người tiêu biểu của hôm nay là ai? Là doanh nhân, nhà quản lý hay vẫn là người nông dân, công nhân thời kỳ mới? Rồi mâu thuẫn của thời đại chúng ta là gì? v.v.. Các tác giả sân khấu đều có trách nhiệm trả lời, giải quyết bằng cách tạo nên các “tích” hay. Có như vậy sân khấu mới hấp dẫn. Bởi vì cả kịch nói lẫn cải lương đều cần tính “kỳ” vốn là đặc trưng của yếu tố hấp dẫn. Sân khấu cần cái mới, cái lạ vốn là những đặc trưng đã bị mất cần được tìm lại, lấy lại…
Với sân khấu cải lương cần có một cái nhìn khác vì cải lương là sân khấu kịch hát, là sân khấu tự sự, kể chuyện nhiều hơn là hành động. Đặc biệt là sân khấu cải lương xã hội rất gần với cách trình diễn của sân khấu kịch nói, nên phải tìm ra sự khác biệt trong sáng tác kịch bản văn học cải lương. Có thể nói hiện nay, tác giả cải lương đúng nghĩa hầu như rất ít, rất hiếm. Một phần vì người am hiểu cải lương hầu như còn rất ít vì tuổi cao đã “gác kiếm” ngưng sáng tác, một số tác giả cũ chưa thích nghi với cái mới, một số tác giả trẻ viết để mưu sinh bằng chuyển thể từ văn học kịch sang bài bản cải lương. Nhờ vậy mà sân khấu cải lương tồn tại. Tuy nhiên sự tồn tại này có hai mặt tích cực là vực dậy sân khấu cải lương, làm đà cho sự trỗi dậy của sân khấu đã từng trải nhiều thăng trầm lên xuống, đã từng có thời huy hoàng với nhiều tên tuổi tác giả từ Nam đến Bắc. Mặt tiêu cực là viễn cảnh cải lương bị kịch nói hóa, mà hiện tượng này lại sinh ra từ chính mảnh đất quê hương của nó. Hiện tượng này gây cho người làm sân khấu, nhất là giới sáng tác cần trở về với những đặc trưng tự sự, trữ tình và kịch tính của kịch bản cũng như biểu diễn sân khấu kịch hát. Kịch hát khác kịch nói ở những điểm chốt, cao trào của kịch, của xung đột tạo cớ để hành động (kịch nói) và tạo cớ để cất lên tiếng ca, nhất là với bài “Vọng cổ”. Người nào đã am hiểu cải lương, đều nắm được điều này. Tác giả cải lương lại càng phải hiểu hơn ai hết.
Khủng hoảng khán giả
Có ý kiến cho rằng, hiện nay sân khấu vắng khán giả vì họ có nhiều sự lựa chọn các phương thức giải trí. Việc mở cửa, hội nhập và hoạt động kinh tế theo quy luật cạnh tranh thị trường đã tạo ra sự lựa chọn nói trên. Thời bao cấp còn nghèo nàn về phương tiện giải trí thì hôm nay, người dân có rất nhiều thú tiêu khiển đến từ phim ảnh, truyền hình, facebook, YouTube, Zalo, Messenger v.v.. Người ta có thể ở nhà mà vẫn tiếp cận được với thế giới bên ngoài. Truyền hình đã vào đến tận phòng ngủ của từng gia đình thì người ta ngại ra đường đến với các rạp diễn. Trong cuộc cạnh tranh với các phương tiện truyền thông, giải trí hiện đại, sân khấu không cạnh tranh nổi nếu không thay đổi cách nghĩ, cách làm. Hiện tượng “thua” ngay trước mắt là sân khấu không giữ được diễn viên, nhất là những diễn viên chuyên nghiệp, nổi tiếng. Trong hiện trạng thiếu vắng khán giả thì không thể trách người làm sân khấu thờ ơ với tập dượt một vở kịch, sẽ không có người xem. Đất nước ta chạy dài theo vĩ tuyến chia thành vùng Nam, Bắc. Hai miền có nhiều điểm chung của nhận thức về khán giả, song hai miền cũng có những điểm khác nhau giữa hai cách sống. Phải chăng do vậy mà phía Nam có được sân khấu xã hội hóa, tư nhân bỏ tiền làm sân khấu, còn phía Bắc không có nhu cầu đó, không cần đến xã hội hóa sân khấu? Liên hoan Sân khấu kịch nói chuyên nghiệp toàn quốc 2018 tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh đã hơn một lần chứng minh sức sống mạnh mẽ của nghệ thuật sân khấu. Tuy nhiên, liên hoan này cũng bộc lộ một số những mặt còn yếu của sân khấu xã hội hóa cũng như sân khấu Nhà nước. Chẳng hạn sự nghèo nàn, cũ kỹ về mảng đề tài phản ánh trong một số tác phẩm. Về hình thức trình diễn, sân khấu xã hội hóa còn đơn điệu.
Những giải pháp ban đầu
Từ cái nhìn tổng thể về tình hình sân khấu công lập và xã hội hóa, từ cuộc liên hoan sân khấu kịch nói chuyên nghiệp 2018 tại Thành phố Hồ Chí Minh và hội thảo về một thế kỷ hình thành và phát triển sân khấu cải lương, thấy một điều hết sức cần thiết là người làm sân khấu phải thay đổi cách làm, cách nghĩ, cách sáng tạo, tóm lại là phải “đổi mới” hướng tới các yếu tố mới trong sáng tác, đạo diễn và biểu diễn. Chẳng hạn hãy kể một câu chuyện bằng nhiều cách hơn là thói quen một cách kể nhiều câu chuyện. Điều này liên quan đến tác giả và đạo diễn sân khấu hơn là với diễn viên.
Sân khấu chúng ta có hai vùng Bắc-Nam với những đặc điểm khác nhau, do đó việc đầu tư cũng nên khác nhau. Phía Bắc nên đầu tư cho việc tìm tòi, thử nghiệm, giao lưu hội nhập. Phía Nam đầu tư mạnh cơ sở hạ tầng, trang thiết bị hiện đại cho các rạp thuộc Nhà nước, các trung tâm văn hóa quận, huyện thuộc các đô thị và nhất là đầu tư rạp diễn cho các “bầu” tư nhân thuê làm điểm biểu diễn. Sân khấu xã hội hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh đang có nguy cơ thiếu vắng khán giả, đồng thời cũng nảy sinh sự dễ dãi trong qua trình hình thành vở diễn. Để sân khấu cạnh tranh được với các loại hình giải trí tân kỳ, hiện đại, sân khấu chúng ta cũng phải đẹp, phải hoành tráng, hấp dẫn, lôi cuốn khán giả. Là nghệ thuật nghe-nhìn, chúng ta cần đầu tư chất xám cho cái xem, cho thị giác người xem. Vào một rạp sang trọng, một không gian lộng lẫy, khán giả sẽ có thái độ khác đi rất nhiều so với thói quen của họ. Về xây dựng không gian trình diễn cho sân khấu xã hội hóa, tư nhân cũng có thể làm được nếu có sự hỗ trợ từ Nhà nước. Đây có lẽ là việc Thành phố Hồ Chí Minh cần làm ngay cho sân khấu phía Nam, cụ thể là cho các sân khấu xã hội hóa ở thành phố.
Cuộc tìm khán giả của sân khấu vẫn đang tiếp tục. Còn rất nhiều việc phải đổi mới, phải bàn và phải làm. Sau mỗi sự kiện như liên hoan, hội thảo, tọa đàm nên có những trao đổi để tìm ra những giải pháp làm cho sự trình diễn sân khấu hấp dẫn hơn, thu hút đông đảo người xem đến rạp.
NSƯT TRẦN MINH NGỌC