QĐND - Trong bài diễn văn đọc tại Lễ kỷ niệm 100 năm Ngày sinh cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng (1-3-1906 / 1-3-2006), đồng chí Phan Văn Khải, Thủ tướng Chính phủ lúc đó đã khẳng định: “Là nhà lãnh đạo có uy tín, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đồng thời là nhà giáo dục, nhà văn hóa lớn. Noi theo người thầy Hồ Chí Minh, đồng chí Phạm Văn Đồng luôn sử dụng tri thức văn hóa dân tộc và nhân loại trong hoạt động cách mạng. Quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam, theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo lớp người vừa “hồng”, vừa “chuyên”, kế tục sự nghiệp cách mạng. Cho đến những năm tháng cuối đời, đồng chí vẫn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, là tương lai của dân tộc. Bên cạnh đó, đồng chí Phạm Văn Đồng đặc biệt chú trọng phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, dành thời gian nghiên cứu, viết nhiều bài là những tác phẩm văn hóa mẫu mực về các danh nhân văn hóa dân tộc, các Vua Hùng, Hai Bà Trưng, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu...”.

Dựa vào những đánh giá vô cùng sâu sắc và chuẩn xác trên đây, chúng tôi xin nêu một vài ý kiến nhằm góp phần tìm hiểu cụ thể hơn về những đóng góp của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc trước đây cũng như trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước ngày nay.

Quan tâm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, một di sản đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam

Chúng ta đều biết, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết rất nhiều bài báo bằng tiếng Pháp trên các tờ báo công khai thời kỳ Mặt trận Bình dân (1935-1938), đấu tranh vạch rõ tội ác của thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương. Ông nổi tiếng là một nhà ngoại giao bặt thiệp và quyền biến, không chỉ vì những lập luận sắc bén và phong cách ngoại giao ông học tập được ở lãnh tụ Hồ Chí Minh, mà còn bởi trong các cuộc đấu tranh trực diện với kẻ thù trên bàn đàm phán, ông đã hùng biện bằng một giọng Pháp văn chuẩn mực, lưu loát và cuốn hút, khiến đối phương phải “tâm phục khẩu phục”. Thế nhưng, trong sinh hoạt, công tác cũng như trong các bài viết của mình, ông luôn có ý thức sử dụng tiếng Việt tối đa, đúng cách và hiệu quả. Ông khẳng định: “Tiếng Việt của chúng ta rất giàu. Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp (…) Tiếng Việt là tiếng nói của nhân dân, đầy tình cảm, màu sắc và âm điệu, hồn nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý nghĩa; đồng thời nó là ngôn ngữ văn học của những nhà thơ lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du...”. Ông nhắc nhở các nhà văn, nhà báo phải là những người mẫu mực trong việc viết và nói tiếng ta; thậm chí có lần ông phê phán thẳng thắn: “Các đồng chí làm việc thế nào tôi không biết, nhưng đọc tác phẩm của các đồng chí, nói thực tôi thấy các đồng chí chưa coi trọng văn lắm... Hiện nay, người ta viết rất ẩu và dùng nhiều chữ nước ngoài quá. Điều đó rất dở và rất bực...”. Ông lưu ý các cháu học sinh không chỉ nói hay, viết hay mà còn phải viết đẹp những con chữ tiếng Việt, bởi: “Chữ viết biểu hiện nết người, chữ viết biểu đạt tư tưởng, là phương tiện để người đọc hiểu ý người viết. Tự trọng mình và trọng người thể hiện ở chữ viết”.

Hội thảo “Phạm Văn Đồng với văn hóa dân tộc” tổ chức tại TP Quảng Ngãi, tháng 5-2014. (Ảnh: NGỌC ANH)

Một sự kiện tiêu biểu cho ý thức giữ gìn di sản văn hóa truyền thống của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đó là vào năm 1966, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước vào giai đoạn ác liệt nhất, ông chủ trương mở hội nghị bàn về giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Ông đã trực tiếp đến dự hội nghị này và trước khi mở đầu bài phát biểu quan trọng của mình, ông cho biết: “Tôi đã đọc toàn văn những tham luận và báo cáo trình bày tại hội nghị trong mấy ngày qua. Tôi cũng đã xem đề cương tóm tắt của 120 bản báo cáo khoa học gửi đến hội nghị”. Bài phát biểu của ông hôm đó đã được đăng lại trên Tạp chí Học Tập số tháng 4-1966, với tựa đề “Tiếng Việt ta rất giàu và đẹp” và từ đó đến nay, bài viết ấy luôn được coi là một bài nghị luận văn học đặc sắc và mẫu mực.

Tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về các danh nhân văn hóa của dân tộc.

Viết về danh nhân Nguyễn Trãi, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đúc kết: “Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn; văn là chính trị: Chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị ngoại giao “mở nền thái bình muôn thuở, rửa nỗi thẹn nghìn thu”; võ là quân sự: Chiến lược và chiến thuật, “yếu đánh mạnh, ít địch nhiều... thắng hung tàn bằng đại nghĩa”; văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao... Thật là một con người vĩ đại về nhiều mặt trong lịch sử nước ta!”. Thật khó có những lời nhận xét nào đầy đủ, sâu sắc và cô đọng hơn thế khi bàn về vị anh hùng dân tộc, nhà văn hóa lớn, người mà hơn năm trăm năm trước từng được vua Lê Thánh Tông tôn vinh là “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo”!

Và hơn năm trăm năm sau, Thủ tướng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Phạm Văn Đồng khi nghiên cứu về danh nhân văn hóa dân tộc Nguyễn Đình Chiểu cũng phát hiện ra một vì sao sáng, như phát hiện của vua Lê Thánh Tông trên đây, nhưng với cách nhìn nhận và đánh giá rất… Phạm Văn Đồng: “Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú ngắm nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu cũng như vậy… Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của dân tộc ta, đáng lẽ phải làm sáng tỏ hơn nữa trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là trong lúc này”. Như vậy, theo Thủ tướng Phạm Văn Đồng, lâu nay chúng ta chưa nghiên cứu, chưa giới thiệu đúng và đủ về những giá trị thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu. Hơn nữa, việc nhìn nhận cũng còn thiên lệch, chỉ gắn tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu với truyện thơ Lục Vân Tiên mà chưa thấu đáo hết toàn bộ thơ văn yêu nước của ông-một sự nghiệp thơ văn thực sự là “khúc ca bi tráng của phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Nam Bộ”. Trong nhận định trên đây của Phạm Văn Đồng, cần lưu ý trạng ngữ “nhất là trong lúc này”. “Lúc này” chính là vào những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, đế quốc Mỹ đã trực tiếp can thiệp vào miền Nam Việt Nam, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta bước vào giai đoạn quyết liệt, phong trào Đồng khởi của đồng bào Bến Tre-quê hương cụ Đồ Chiểu-đã lan rộng thành một phong trào mạnh mẽ khắp miền Nam. Trong hoàn cảnh ấy, việc nghiên cứu và phổ biến những giá trị thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu là hết sức cần thiết, bởi đó là vũ khí đánh giặc của một nhà thơ dân tộc, cũng chính là vũ khí chống xâm lược của nhân dân ta, như chính nhà thơ đã tuyên bố: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.

Trong toàn bộ những công trình nghiên cứu của Phạm Văn Đồng về các vị anh hùng và danh nhân văn hóa của dân tộc, số lượng tác phẩm của ông viết về Bác Hồ và tư tưởng Hồ Chí Minh là đồ sộ nhất, công phu và giá trị nhất. Đồng chí Nguyễn Tiến Năng, nguyên Trợ lý cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng kể rằng: Nhiều khách quốc tế cũng như đồng chí trong nước trong những lần thăm, làm việc đã đề nghị Thủ tướng viết hồi ký để người đọc biết thêm về cuộc đời và sự nghiệp của ông qua các thời kỳ cách mạng. Nhưng ông đều trả lời rằng: “Tôi không viết hồi ký mà chỉ tập trung viết về Bác Hồ. Nhưng viết về Bác là điều cực kỳ khó, bởi người ta, cả trong nước và ngoài nước, đã viết hàng trăm cuốn sách về Bác, vậy mình viết cái gì và viết như thế nào, thật không dễ”. Có lẽ đó là một trong những lý do khiến ông gần như suốt đời nghiền ngẫm, nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, một người thầy lớn của ông, một danh nhân văn hóa của dân tộc và thế giới. Đặc biệt từ sau khi nghỉ hưu, ông gần như dành toàn bộ tâm sức cho việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong khoảng thời gian chưa đầy một thập niên, Phạm Văn Đồng đã hoàn thành việc xuất bản hàng loạt công trình về Chủ tịch Hồ Chí Minh, như: “Hồ Chí Minh, một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp” (1990), “Hồ Chí Minh, quá khứ, hiện tại, tương lai” (1991), “Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giàu nước mạnh” (1993), “Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh” (1998)… Trong các tác phẩm nêu trên, tác giả Phạm Văn Đồng đã chứng minh những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như vai trò quan trọng về tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người trong suốt tiến trình cách mạng giải phóng dân tộc trước kia và trong công cuộc đổi mới hiện nay.

Luôn quan tâm đời sống văn nghệ đất nước, nhất là nghệ thuật truyền thống dân tộc

Sinh thời, trong những lần các đoàn văn công biểu diễn báo cáo chương trình mới, phục vụ Bác Hồ cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, trên hàng ghế đầu, ta thường thấy có Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nhà thơ Tố Hữu… dự và sau đó trò chuyện thân mật với các nghệ sĩ, trao đổi, góp ý về nội dung và nghệ thuật của các tiết mục biểu diễn.

GS Hoàng Chương, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam, kể: Cách đây 36 năm, Nhà hát tuồng Nghĩa Bình (nay là Nhà hát tuồng Đào Tấn) dàn dựng vở tuồng “Quang Trung đại phá quân Thanh” của tác giả Trúc Đường, do GS Hoàng Chương đạo diễn. Vở tuồng đã được công diễn tại Nhà hát Lớn Hà Nội phục vụ nhân dân Thủ đô và biểu diễn tại Hội trường Ba Đình phục vụ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ V. Hôm đó, vì bận công tác nên Thủ tướng Phạm Văn Đồng không xem được, nhưng sau đó, Thủ tướng đã thu xếp để xem vở diễn tại TP Quy Nhơn nhân dịp đồng chí vào Nghĩa Bình công tác. Sau khi trở ra Hà Nội, ông đã cho mời GS Hoàng Chương và tác giả Trúc Đường tới nhà riêng để trao đổi về vở diễn. Ông phân tích rất sâu, rất kỹ về phong trào Tây Sơn, vai trò của Nguyễn Huệ và đánh giá rất cao chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa. Cuối cùng, Thủ tướng đề nghị nên tiếp tục nâng cao và chuyển thể vở tuồng “Quang Trung đại phá quân Thanh” thành phim để chiếu rộng rãi cho khán giả trong và ngoài nước xem.

Chúng tôi cũng từng được nghe NSND, đạo diễn Trần Văn Thủy kể về số phận long đong của bộ phim “Hà Nội trong mắt ai” và sự giúp đỡ tận tình của Thủ tướng Phạm Văn Đồng để bộ phim “tai qua nạn khỏi”, sau này giành được những giải thưởng cao quý. “Hà Nội trong mắt ai” sử dụng những câu chuyện và nhân vật lịch sử gắn bó với Thủ đô để phản ánh suy nghĩ của người dân về tình hình xã hội trong “đêm trước của Đổi mới”. Bộ phim đã bị cấm chiếu dù được nhiều người khen ngợi về nội dung và chất lượng nghệ thuật. Lý do chính là vì bộ phim đã mượn chuyện xưa để nói chuyện nay, có người còn quy kết rằng bộ phim có tính chất chống Đảng, “dạy Đảng cầm quyền”. Vì vậy, đạo diễn Trần Văn Thủy đã gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống và công việc, nhiều bạn bè thậm chí còn tưởng ông sắp bị bắt giam. Ngay cả Xưởng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương cũng gặp rắc rối vì bộ phim này. Giữa tháng 10-1983, cơ hội cuối cùng đến với đạo diễn khi “Hà Nội trong mắt ai” được Thủ tướng Phạm Văn Đồng đề nghị chiếu cho ông xem. Sau khi xem xong phim, Thủ tướng đã bày tỏ sự ủng hộ với bộ phim và đạo diễn Trần Văn Thủy. Ông tiếp tục bằng nhiều cách như liên hệ với Văn phòng Ban Bí thư và phát biểu trước Đại hội lần thứ 2 của Hội Điện ảnh Việt Nam như sau: “Phải tổ chức chiếu công khai bộ phim này cho nhân dân xem. Chiếu càng rộng rãi càng tốt, càng nhiều càng tốt. Nên chiếu ngay lập tức, nếu phát hiện ra cái gì sai thì sửa sau!”. Nhờ vậy, bộ phim đã được công chiếu từ giữa tháng 10-1983. Tuy nhiên, “Hà Nội trong mắt ai” vẫn gây nhiều luồng ý kiến. Cho đến năm 1987, sau ý kiến của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, bộ phim mới chính thức được “giải oan” và được tôn vinh. Cho đến nay, đây vẫn là một trong những bộ phim tài liệu tiêu biểu nhất của Điện ảnh Việt Nam. Nhắc lại câu chuyện trên không phải chỉ để ca ngợi một bộ phim hay, mà để thấy rõ hơn “con mắt xanh” của một nhà văn hóa lớn và tấm lòng của một vị lãnh đạo đối với những tác phẩm nghệ thuật xuất sắc của những nghệ sĩ tài năng. Xét cho cùng thì những tác giả và tác phẩm như thế, đều là những tài sản quý của văn hóa dân tộc!

MAI NAM THẮNG