Một cộng tác viên thân thiết

Từ ngày về công tác tại Báo QĐND, tôi được tiếp xúc với ông Dương Xuân Đống vài lần. Ấn tượng ban đầu, ông là người tỉ mỉ, cẩn thận và dễ gần. Nhà nghiên cứu Dương Xuân Đống là một cộng tác viên “bấm nút” của Báo QĐND Cuối tuần, thường có những bài phân tích nghệ thuật quân sự Việt Nam công phu, hàm lượng khoa học cao.

Tháng 4 vừa qua, ông viết cho Báo QĐND Cuối tuần loạt 3 bài với chủ đề “Nghệ thuật giành toàn thắng trong Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975”. Ông bảo, đây là những bài viết cuối cùng ông cộng tác bởi sức khỏe đã không còn cho phép. Loạt bài cho người đọc thấy rõ trong VHQS Việt Nam, nghệ thuật của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc với hàng nghìn năm phát sinh và phát triển đã vươn tới những đỉnh cao mới về nghệ thuật quân sự của một loại hình chiến tranh khác nữa là chiến tranh giải phóng dân tộc, nhận được nhiều phản hồi tích cực từ độc giả.

Tôi tìm tới nhà riêng của ông, một căn nhà nhỏ trên đường 800A, Nghĩa Đô, Hà Nội. Hóa ra, nhà nghiên cứu VHQS nức tiếng lại là ông ngoại của một người bạn học THPT của tôi. Con ngõ nhỏ trước nhà ông là nơi mà nhiều năm về trước, mấy cậu học sinh chúng tôi vẫn ngồi hàn huyên tâm sự, nhưng chẳng bao giờ thấy ông xuất hiện.

Còn bà Hoàng Thị Lưỡng, năm nay 80 tuổi (vợ ông) là người tôi khá quen mặt. Bởi đám học trò chúng tôi ngày ấy vẫn thấy bà loanh quanh trong nhà, đôi lúc lại ra hỏi han. Hỏi bà Lưỡng tôi mới vỡ lẽ, từ khi nghỉ hưu, trừ những lúc đi thư viện để khảo cứu, còn lại, ông dốc lực làm công tác nghiên cứu VHQS trong phòng. Khi ấy, vốn đang từ nghiên cứu, giảng dạy truyền thống đánh giặc, giữ nước của dân tộc ta, ông chuyển sang nghiên cứu VHQS Việt Nam và xem đây là bộ môn khoa học mới.

leftcenterrightdel
Nhà nghiên cứu Dương Xuân Đống.

Nhà nghiên cứu Dương Xuân Đống năm nay 87 tuổi. Ông sinh ra tại phường Ba Đình, TP Thanh Hóa (Thanh Hóa). Năm 1954, người thanh niên Dương Xuân Đống nhập ngũ vào Đại đoàn 320. Từ thời gian này, ông bắt đầu cộng tác với Báo QĐND với những tin, bài đầu tiên, chủ yếu về các lĩnh vực tăng gia sản xuất, chiến đấu, huấn luyện. 36 năm phục vụ trong quân đội, ông đã có nhiều năm giảng dạy lịch sử quân sự tại Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng) cho đến lúc nghỉ hưu năm 1990.

“Căn phòng hàn lâm” của nhà nghiên cứu Dương Xuân Đống rộng chừng 15m2, chỉ rặt sách với sách. Sách xếp thành nhiều hàng, nhiều tầng. Ông là người am tường lịch sử dân tộc, với vốn hiểu biết văn hóa sâu rộng. Khi chuyển sang hướng nghiên cứu mới từ năm 1990 đến nay, ông có gần 1.000 bài báo, tiểu luận đăng tải trên các tờ báo, tạp chí. Đặc biệt, ông có bài viết mở đầu chuyên mục “Văn hóa quân sự” của Báo QĐND Cuối tuần số ra ngày 13-10-1996.

Ông Dương Xuân Đống nhớ lại: “Theo gợi ý của hai anh Nguyễn Mạnh Hùng và Đỗ Trung Lai, tôi bắt đầu viết những bài báo ngắn dưới một mũ chung Văn hóa quân sự trên tờ QĐND Cuối tuần”. Từ những bài viết trên chuyên mục ấy, ông tập hợp, bổ sung thêm một số bài khác, viết thành bộ sách 8 tập với tiêu đề “Từ cây giáo đến khẩu súng”, trong đó có 5 tập được thư viện Trường Đại học Michigan, Hoa Kỳ giới thiệu trên website của nhà trường.

Nói đến đây, ông lấy ra 8 cuốn “Từ cây giáo đến khẩu súng” được bọc kỹ lưỡng. Cuốn đầu tiên xuất bản năm 1998, cuốn thứ 8 xuất bản năm 2016. Ông lý giải: “Ai cũng hiểu rõ, văn hóa vốn là một vấn đề hết sức rộng lớn, bao trùm lên mọi lĩnh vực sinh hoạt xã hội như: Âm nhạc, hội họa, thời trang, gia đình, giáo dục... dưới những biểu hiện phong phú của cái hay, cái đẹp, thông qua sự lựa chọn khác nhau và mang bản sắc riêng biệt của từng vùng, từng cộng đồng, dân tộc. Với tư cách là một lĩnh vực hoạt động xã hội, quân sự cũng có những cái hay, cái đẹp riêng của nó và thể hiện thành đặc trưng trí tuệ dân tộc trong sự nghiệp giữ nước, biểu hiện ở những cái thắng, cái hùng. VHQS Việt Nam là nội dung thực chất của văn hóa giữ nước. Nó là văn hóa bảo vệ độc lập dân tộc và tự do của nhân dân, là văn hóa chính nghĩa. Tôi cho rằng, đặc thù của quân sự là đấu tranh vũ trang, một kiểu hành động bằng bạo lực. Mà kiểu hành động nào dù là bạo lực-muốn thắng lợi cũng phải có phương tiện và phương pháp. Ở đây, phương tiện là quân đội-bao gồm lực lượng và vũ khí-và phương pháp là cách thức tác chiến theo các quy mô cao thấp khác nhau-nội dung thực chất của nghệ thuật quân sự. Từ đó, những bài tôi viết đều nhằm khai thác theo hai nhóm đề tài: Phương tiện-lực lượng, vũ khí; phương pháp tư tưởng và nghệ thuật quân sự, trong đó tư tưởng là tư duy quân sự, nghệ thuật là hành động quân sự”.

Khi thực hiện các bài viết, nhà nghiên cứu Dương Xuân Đống đi sâu tìm hiểu những cách lựa chọn trong việc tuyển mộ, phiên chế tổ chức, trang bị-từ vũ khí thô sơ đến vũ khí hiện đại-huấn luyện, giáo dục, bảo đảm hậu phương, đào tạo người chỉ huy... để tạo nên sức mạnh. “Còn khi thực hiện các bài viết về nghệ thuật quân sự, tôi lưu tâm vào những cách lựa chọn về lý luận và thực tiễn chuẩn bị, thực hành tác chiến, về các hình thức và phương thức tác chiến cũng như các kiểu loại tác chiến... để đi tới chiến thắng”-ông cho biết.

Đối với ông, đây là một việc làm còn rất mới mẻ, lạ lẫm nên cách tiếp cận cũng hết sức dè dặt. Vì thế, ông phải từng bước dò dẫm, vừa làm vừa học. Cứ thế, các bài viết về VHQS ngày càng có chất lượng tốt hơn, phục vụ được hiệu quả hơn. Theo ông, về phương châm hành động của nghệ thuật quân sự bao giờ cũng gồm: Tạo lực, lập thế, tranh thời, dụng mưu.

Bền bỉ nghiên cứu khoa học

Xuyên suốt trong các công trình nghiên cứu của mình, nhà nghiên cứu Dương Xuân Đống khẳng định, VHQS Việt Nam thực chất là văn hóa giữ nước bằng đấu tranh vũ trang. Truyền thống đánh giặc, giữ nước của dân tộc là một khái niệm được các nhà sử học Việt Nam dùng để chỉ một hệ thống kinh nghiệm được rút ra từ lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Từ sự nghiệp đánh giặc, giữ nước của cha ông ta đã hình thành một nền văn hóa giữ nước bằng đấu tranh vũ trang, được hun đúc, giao lưu và tiếp biến trong tiến trình lịch sử dân tộc. Trước những kẻ thù xâm lược khác nhau, qua từng thời đại, từng giai đoạn lịch sử, từng cuộc kháng chiến, để giành thắng lợi trong việc tiến hành chiến tranh, từ dám đánh, quyết đánh đến biết đánh và biết thắng, dân tộc ta đã tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa VHQS từ phương Đông đến phương Tây, biến đổi cho phù hợp với điều kiện Việt Nam, làm phong phú thêm vốn văn hóa giữ nước của mình.

Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc hệ thống hóa truyền thống đánh giặc, giữ nước của cha ông rồi rút ra những kinh nghiệm thì chưa đầy đủ, nhà nghiên cứu Dương Xuân Đống còn khái quát hóa hệ thống kinh nghiệm đó, rút ra những quy luật, nâng lên thành lý luận, trở thành bộ môn khoa học về đánh giặc, giữ nước của dân tộc ta. Những nghiên cứu của ông đã góp phần luận giải quá trình hình thành và bản chất của VHQS Việt Nam.

Đầu năm 2016, khi đã 83 tuổi, ông gửi đến Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật một công trình nghiên cứu đồ sộ gần 2.000 trang, để rồi cuốn đại điển với tiêu đề “Văn hóa quân sự Việt Nam-Văn hóa giữ nước” ra đời. Đây là một công trình khoa học độc lập, một “tập đại thành” công phu nghiên cứu của chính ông, trình bày những nội dung cơ bản, chính yếu của VHQS Việt Nam từ khởi nguồn đến năm 1975, với những nhận định, đánh giá sâu sắc, mang sắc thái riêng. Với công trình này, ông khẳng định VHQS Việt Nam là bộ phận chính yếu hợp thành nền văn hóa dân tộc, một nền văn hóa đặc sắc, thống nhất trong đa dạng, kết tinh những giá trị sắc thái văn hóa của tất cả dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Trên bàn làm việc của ông còn ngổn ngang giấy tờ. Bản thảo “Chiến tranh nhân dân, một phương pháp giành chiến thắng của người Việt” ông viết đang dang dở. Ở tuổi 87, nhà nghiên cứu Dương Xuân Đống vẫn đau đáu, suy nghĩ nhiều về VHQS. Ông khiến mọi người ngạc nhiên bởi niềm say mê bền bỉ và một phong cách làm việc khoa học hiếm thấy. Tôi thầm mong, ông có thêm nhiều sức khỏe và sẽ tiếp tục viết bài cộng tác với Báo QĐND Cuối tuần...

Bài và ảnh: HOÀNG VIỆT