Từ bức huyết thư đi B đến nữ biệt động thành quả cảm

Câu chuyện về nữ liệt sĩ biệt động Sáu Xuân được các đồng chí lãnh đạo Quận ủy, UBND quận 1, TP Hồ Chí Minh kể lại với chúng tôi rất đỗi tự hào. Chuyện bắt đầu từ bức thư viết bằng máu của một cô giáo trẻ ở miền Bắc sôi nổi thanh xuân xung phong vào Nam chiến đấu. Năm 1964, giảng viên Lê Thị Bạch Cát, sinh năm 1940, quê ở Cửa Lò, Nghệ An, có nhiều thành tích xuất sắc, đầy triển vọng của Trường Trung cấp Thể dục Thể thao (nay là Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội) đã viết một bức thư bằng máu gửi lãnh đạo Bộ Giáo dục nêu nguyện vọng được vào Nam chiến đấu, trong thư có viết: “Em đi trả nghĩa, để thầy cầm viên phấn dắt dìu bầy em sau”. Trước khát vọng và ý chí cháy bỏng ấy, Bộ trưởng Bộ Giáo dục đã chấp thuận chuyển Bạch Cát đến Ban Thống nhất Trung ương, và sau đó chị được tham gia lớp luyện quân đặc biệt K33 ở Phú Thọ.

leftcenterrightdel

Chân dung liệt sĩ Lê Thị Bạch Cát. Ảnh do gia đình liệt sĩ cung cấp 

Sau 3 tháng huấn luyện đặc biệt, cuối tháng 12-1964, đội K33 xuất quân lên đường vào Nam. Sau 86 ngày đêm vượt Trường Sơn, Bạch Cát cùng đồng đội ở K33 có mặt tại Trung ương Cục miền Nam. Tháng 7-1965, chị được phân công về Khu ủy Sài Gòn-Gia Định, tham gia Khu đoàn Sài Gòn-Gia Định đóng ở chiến khu Tây Nam Bến Cát, Bình Dương có nhiệm vụ quản lý, giác ngộ khối sinh viên hoạt động nội đô. Với sự năng động, hiểu biết, lanh lẹ, sắc sảo, bằng nhiều vỏ bọc, chị Bạch Cát với bí danh Sáu Xuân đã thiết lập được 12 cơ sở bí mật ở nội thành. Đồng chí Phạm Chánh Trực, nguyên Phó bí thư Thường trực Thành ủy, trong giai đoạn 1965-1967 là Ủy viên Thường vụ Khu đoàn phụ trách Đoàn ủy các trường đại học ở Sài Gòn, nhớ lại: "Chị Sáu Xuân là người bản lĩnh, năng động, hoạt bát, phát hiện vấn đề và giải quyết sự việc một cách chỉn chu, đầy đủ độ tin cậy. Chị luôn chấp hành nghiêm mệnh lệnh cấp trên, có năng lực tổ chức, chỉ huy, sống trách nhiệm cao với tập thể, hòa nhã với mọi người, vui vẻ, hay hát và hát hay...".

Còn cựu nhà giáo Huỳnh Thiện Kim Tuyến, Trưởng chi hội giáo nội đô, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà giáo yêu nước Sài Gòn-Gia Định, cho biết: “Chị Sáu Xuân là hiện thân của trí tuệ, đức độ, tính tiền phong và tinh thần dũng cảm... Chính hình ảnh tiêu biểu từ chị đã thu phục, cảm hóa, giác ngộ được nhiều sinh viên, trí thức ngày ấy, trong đó có 3 chúng tôi: Huỳnh Thiện Kim Tuyến, Nguyễn Thị Quế Lan, Tôn Nữ Quỳnh Trân, cùng là sinh viên Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, niên khóa 1964-1965 đã theo Quân Giải phóng làm cách mạng”.

Trước yêu cầu mới, cuối năm 1965, Sáu Xuân được Khu đoàn lựa chọn, điều động lên Đà Lạt để xây dựng phong trào đấu tranh trong thanh niên, học sinh. Đồng chí Hoàng Tuấn Hùng, sinh năm 1949 (chiến sĩ giao liên cho chị Bạch Cát), nguyên Thành ủy viên, Trưởng ban Tổ chức chính quyền thời điểm sau năm 1975, nguyên Trưởng phòng Lao động-Thương binh và Xã hội TP Đà Lạt, nhớ lại: "Những năm 1965-1967, Đà Lạt là lò luyện binh khét tiếng của Mỹ-ngụy. Để móc nối tới cơ sở cách mạng bí mật 36/Sào Nam (N6) và số 5 ấp Nghệ Tĩnh, chị Sáu Xuân đã mưu trí, gan dạ luồn sâu, hoạt động giữa vòng vây của quân địch và lập công xuất sắc".

leftcenterrightdel
                 

Kỷ vật xe máy hiệu Honda 67 được chiến sĩ giao liên Hoàng Tuấn Hùng chở đồng chí Lê Thị Bạch Cát hoạt động cách mạng trong nội thành Sài Gòn những năm chống Mỹ, cứu nước. Ảnh: Quang Vinh

Chỉ trong thời gian ngắn, dù hoạt động đơn tuyến, chị Bạch Cát đã gây dựng được 144 cơ sở bí mật, nhất là ở các “lõm” chính trị vùng ngoại thành. Trong vai trò thủ lĩnh, gây dựng các phong trào đấu tranh, chị Bạch Cát đã thành lập Hội Nhân dân sinh viên học sinh vào ngày 26-3-1966; ngày 29-3-1966 tổ chức cuộc biểu tình ở chợ Hòa Bình, tập hợp hơn 5.000 thanh niên, học sinh tham gia. Tháng 4-1966 tổ chức cho lực lượng sinh viên, học sinh chiếm Đài Phát thanh Đà Lạt, tuyên truyền đấu tranh đòi dân chủ...

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, chị Bạch Cát được tổ chức đưa trở lại Sài Gòn-Gia Định, phân công giữ chức Quận ủy viên, Bí thư Quận đoàn, Bí thư Chi bộ Võ trang tuyên truyền liên quận 2-4. Trong cuộc tiến công đợt một, chị Bạch Cát chỉ đạo Chi bộ Võ trang tuyên truyền liên quận 2-4 phát động nhân dân nổi dậy, vũ trang chiến đấu, tấn công địch. Các đội viên do chị chỉ huy đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm, tiêu diệt nhiều tên ngụy ác ôn, treo cờ Giải phóng ở nhiều điểm... Để chuẩn bị tổng tiến công đợt hai vào ngày 5-5-1968, chị Bạch Cát chỉ huy một cánh quân ém ở hẻm 83 dốc Đề Thám, phường Cô Giang, quận 1 sẵn sàng chờ lệnh. Rạng sáng 5-5-1968, trung đội do chị Bạch Cát chỉ huy đã tổ chức tuyên truyền, kêu gọi nhân dân nổi dậy đấu tranh... Địch huy động tiểu đoàn cảnh sát dã chiến cùng nhiều súng ống vây ráp toàn bộ khu vực Cầu Muối, Đề Thám, Cô Giang, Cô Bắc... để truy bắt. Trước hỏa lực mạnh, dồn dập của địch, chị Bạch Cát ra lệnh cho Trung đội phó Trần Thị Diễn (bí danh Tám Tôn) dẫn đội hình rút lui để bảo toàn lực lượng, còn lại mình và một vài đội viên bị thương ở lại cố thủ, cản địch.

Chị Bạch Cát đã đấu súng giằng co với quân địch cho đến khi hết đạn, bị thương. Địch gọi hàng nhằm bắt sống chị. Quyết không để sa vào tay địch, chị Bạch Cát liên lục hô vang: “Đả đảo đế quốc Mỹ! Hồ Chí Minh muôn năm!”. Những loạt đạn từ phía địch găm vào người con gái xứ Nghệ, nữ biệt động quả cảm. Chị ngã xuống, hy sinh khi vừa 28 tuổi. Điên cuồng vì không bắt sống được, địch lôi thi thể chị quăng lên xe mang đi thủ tiêu.

Niềm tự hào giữa lòng đô thị

Chiến tranh đã lùi xa, nhưng ký ức của bà Nguyễn Thị Hiền (bí danh Tư Trinh), nguyên Bí thư Đảng ủy Cơ quan Dân-Chính-Đảng TP Hồ Chí Minh, nguyên Đội trưởng Đội Biệt động Trung Dũng-Sài Gòn, về liệt sĩ Bạch Cát vẫn vẹn nguyên: “Tôi biết chị Sáu Xuân từ năm 1966, khi đó chị đi với anh Ba Xích lên cứ. Ngày đó tôi là giao liên ở chiến khu. Sau đó, chị Sáu Xuân về hoạt động ở nội đô, buôn bán rau, quả... ở chợ Cầu Muối. Chị Sáu Xuân là người miền Bắc, vượt Trường Sơn vô Nam hoạt động vô cùng gian khổ, vậy mà vẫn hòa dịu, cảm hóa được nhiều người theo cách mạng. Đợt hai của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, trong 4 mũi do Quận ủy triển khai thì chị Sáu Xuân phụ trách mũi ở hẻm 83 Đề Thám; còn tôi phụ trách một mũi. Hai mũi còn lại do chị Mười Hòa (Bùi Thị Hòa) và chị Sáu Tam (Lê Thị Hoa) phụ trách. Sau trận đánh ở hẻm 83, tôi gặp chị Tám Tôn (Trần Thị Diễn) kể lại chị Sáu Xuân đã ra lệnh mọi người rút lui để bảo toàn lực lượng, còn mình ở lại cầm chân địch cho đến lúc hy sinh. Tấm gương chiến đấu của chị thật vô cùng gan dạ, quả cảm”.

Với những thành tích đặc biệt xuất sắc, tấm gương liệt sĩ Lê Thị Bạch Cát đã được Đảng bộ, chính quyền TP Hồ Chí Minh tổ chức nhiều hoạt động giáo dục truyền thống, lan tỏa đến thế hệ trẻ. Tên của chị được đặt cho một con đường và một trường học ở phường 8, quận 11. Quận đoàn quận 1 đã tổ chức Giải thưởng Lê Thị Bạch Cát dành cho đoàn viên tiêu biểu, có thành tích xuất sắc. Ở quê nhà của liệt sĩ tại thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An, tên chị cũng được đặt cho một trường tiểu học.

Thượng tá Huỳnh Văn Thương, Chính trị viên Ban CHQS quận 1, TP Hồ Chí Minh cho biết: "Liệt sĩ biệt động Lê Thị Bạch Cát là một tấm gương quả cảm, lập nhiều chiến công xuất sắc, đã trở thành hình tượng cách mạng để tuyên truyền đấu tranh vũ trang ở nội đô Sài Gòn từ năm 1968 đến ngày miền Nam giải phóng (30-4-1975). Quá trình tìm lại các tư liệu, nhân chứng để hoàn thành hồ sơ đề nghị truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân đối với liệt sĩ Lê Thị Bạch Cát đã giúp chúng tôi thấy một tấm gương nhà giáo, nữ biệt động dành trọn thanh xuân, trí tuệ cho khát vọng, lý tưởng cách mạng". Trên cơ sở đề nghị của các cấp, ngành, hội đồng thi đua khen thưởng các cấp thuộc TP Hồ Chí Minh, Bộ tư lệnh TP Hồ Chí Minh, Quân khu 7, đầu năm 2024, Bộ Quốc phòng đã có tờ trình đề nghị truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân đối với liệt sĩ Lê Thị Bạch Cát. Cán bộ, chiến sĩ, thanh niên và người dân thành phố tưởng nhớ đến liệt sĩ Lê Thị Bạch Cát như hình tượng cánh chim bằng trong bão lửa. Chị vẫn sống mãi trong tâm thức, ký ức và niềm tự hào của nhân dân Thành phố mang tên Bác, như cánh chim bằng bay mãi... giữa bầu trời hòa bình, đầy khát vọng đổi mới.

Bài và ảnh: TRUNG KIÊN