Tháng 10-1978, sau khi tốt nghiệp lớp quân y sơ cấp tại Trường Quân y Quân khu 5, Nguyễn Tấn Tài được biên chế về Đại đội quân y 17 (Trung đoàn 250, Bộ CHQS tỉnh Đắk Lắk). Hưởng ứng lời kêu gọi giúp đỡ của bạn, Trung đoàn 250 được điều động sang chiến trường Campuchia, tác chiến trên khu vực các tỉnh Mondulkiri, Ratanakiri, Kratié. Cuối năm 1979, đơn vị rút quân về nước để củng cố lực lượng. Sau đó, Trung đoàn trở lại nước bạn, biên chế về Sư đoàn 341 (Quân đoàn 4), thực hiện nhiệm vụ truy quét tàn quân Pol Pot ở Phnom Penh. Hoàn thành nhiệm vụ, Trung đoàn được lệnh cơ động lên tỉnh Battambang tiếp tục hoạt động tác chiến. Đại đội quân y 17 (Trung đoàn 250) do Trung úy, y sĩ Nguyễn Văn Nhã làm Đại đội trưởng, đóng quân tại ngã ba An Đông (tỉnh Battambang) để thành lập trạm xá tiền phương của Trung đoàn, kịp thời cứu chữa thương binh, bệnh binh.

“Lúc đó, tôi là y tá, kỹ thuật viên gây mê hồi sức”, ông Nguyễn Tấn Tài nhớ lại. Biên chế của đại đội quân y lúc ấy khoảng 30 cán bộ, chiến sĩ nhưng chỉ có một bác sĩ là Trung úy Nguyễn Xuân Cố và 7 y sĩ, còn lại là y tá. Đóng quân trong điều kiện dã chiến, nhiệm vụ của trạm phẫu tiền phương vô cùng nặng nề. Bộ đội đi truy quét tàn quân Pol Pot vướng phải mìn của địch, có thời điểm thương binh về trạm khoảng 20 người nên kíp mổ vì thế phải làm việc rất vất vả. Đối với những ca mổ trong điều kiện thiếu ánh sáng, đơn vị bố trí máy phát điện quay tay để chiếu sáng. Ông Tài cho biết: “Trong điều kiện dã chiến, chúng tôi cố gắng hết khả năng để cứu sống thương binh chứ không phân cấp chuyển viện. Thương binh về, anh em nhanh chóng triển khai bàn mổ để giành giật sự sống cho đồng đội”. Sau mổ, thương binh nằm tại bệnh xá từ 3 đến 4 ngày mới có xe hoặc máy bay trực thăng đưa về phía sau. Trên chiến trường Campuchia, địch sử dụng rất nhiều ríp (một loại mìn). Chúng thường rải mỗi chỗ 3 quả để khi một người bị thương, đồng đội đến giúp đỡ sẽ bị nổ tiếp. Loại mìn này khi đạp vào, người đó sẽ bị đứt bàn chân hoặc phạt đứt ống chân, làm mất sức chiến đấu của ta.

leftcenterrightdel

 Ông Nguyễn Tấn Tài. Ảnh: LONG AN 

Trực tiếp gây mê, hồi sức cho nhiều ca mổ nhưng mỗi khi kể về trường hợp hy sinh của Thượng úy Nguyễn Văn Hoắc, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 250, ông Tài lại không kìm được xúc động. Ông kể: “Anh Hoắc vừa mới về phép sang. Hôm trước, anh ghé trạm phẫu cho anh em chúng tôi gói kẹo và mấy lạng trà được mang từ Việt Nam qua. Anh em tôi mới chuyện trò hôm trước thì hôm sau anh bị lính Pol Pốt phục kích. Chúng bắn anh một viên đạn AK xuyên từ mông lên qua vai”. Khi được đồng đội đưa đến trạm phẫu, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Hoắc còn tỉnh táo, miệng thều thào nói: “Cứu anh với Tài ơi!”. Mặc dù đội ngũ y, bác sĩ đã cố gắng hết sức nhưng anh không qua khỏi vì viên đạn đã phá vỡ xương chậu, xuyên thủng phổi, mất máu nhiều.

Không chỉ cứu chữa thương binh, Đại đội Quân y 17 còn kịp thời chữa trị cho tù binh địch. Tháng 6-1980, ta bắt được một tù binh nữ ngoài 20 tuổi, giẫm phải mìn của chúng bị cụt một chân. Khoảng 9 giờ sáng, tù binh được đưa đến trạm phẫu khi vết thương đã phù nề do ga rô. Trung úy, bác sĩ Nguyễn Xuân Cố nhanh chóng chỉ huy kíp mổ gồm 6 người để kịp thời cứu sống bệnh nhân. Sau gần hai tiếng đồng hồ căng thẳng, ca mổ hoàn thành. Bệnh nhân tỉnh táo, được đơn vị chăm sóc, theo dõi cẩn thận sau mổ. Sáng hôm sau, thấy sức khỏe của nữ tù binh đã ổn định, chỉ huy đại đội tổ chức bàn giao cho Sư đoàn 1, quân đội Campuchia để bạn xử lý các bước tiếp theo.

Tháng 1-1983, Trung đoàn 250 được lệnh rút về nước. Sau đó một thời gian, ông Nguyễn Tấn Tài chuyển công tác sang ngành bưu điện. Tuy nhiên đối với ông, những tháng năm sống trong quân ngũ luôn là niềm tự hào, ký ức đẹp về một thời tuổi trẻ. Ông không thể nào quên những đồng đội cùng trạm phẫu trên chiến trường Campuchia như: Đỗ Văn Tuân, Nguyễn Xuân Vọng, Nguyễn Văn Nhạ, Nguyễn Xuân Cố, Trần Đàm, Lê Nha Lành, Phạm Văn Đức...

NGUYỄN AN KHÁNH