Nhà xuất bản Quân đội nhân dân vừa cho ra mắt bạn đọc cuốn hồi ký Đời chiến sĩ của Đại tướng Phạm Văn Trà, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Cuốn sách gồm 7 chương với 484 trang, được in trên giấy tốt, trình bày trang nhã, khá bắt mắt.
Dựa trên nền tảng sử liệu phong phú, tin cậy, tác giả có được những trang viết thấm đậm ân tình về vùng đất Kinh Bắc nghìn năm văn vật, miền quê Phù Lãng bên con sông Cầu phong cảnh hữu tình, nơi có nhiều sản vật và ngành nghề truyền thống mang tính đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ. Quê hương, nguồn cội đã hun đúc nên tâm hồn và ý chí của chàng trai trẻ Phạm Văn Trà. Dù nhỏ con và thiếu cân, mấy lần suýt bị loại nhưng vì mang nặng mối thù của người cha và người chú bị giặc Pháp sát hại, ông đã áp dụng “chiến thuật” để nhập ngũ cho bằng được. Từ những trận chiến đấu vỡ lòng ở Tiểu đoàn Thiên Đức cuối thời chống Pháp, người lính trẻ từng bước trưởng thành.
Bước vào thời chống Mỹ, thay vì đi học ở nước ngoài theo thông báo ban đầu của tổ chức, Trung úy Phạm Văn Trà lại được chọn đi B. “Bộ quyết định chọn một số cán bộ có kinh nghiệm hoạt động, chiến đấu ở Đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đưa vào Đồng bằng sông Cửu Long”. Hơn 5 tháng trời vượt Trường Sơn, họ đã nếm trải biết bao gian nan, cơ cực. Trên đường hành quân, những người lính chia nhau từng cơn sốt; chia nhau từng cọng rau rừng. Hằng ngày họ bị cái đói giày vò, hành hạ, “đói vàng mắt. Vẫn bước đi, nhưng trước mắt chỉ thấy hoa cà, hoa cải, có khi thấy như đom đóm bay giữa trời chiều”. Chi tiết những lúc đói quá, ông lấy ngón tay chọc vào lọ đường cho dính mấy hạt để mút, lấy sức đi tiếp khiến người đọc xúc động. “Cảm giác hạt đường tan vào lưỡi khi đó, có thể giá trị gấp nhiều lần lát sâm - củ sâm Cao Ly…”.
Hàng chục năm bám trụ chiến đấu trên chiến trường miền Tây Nam Bộ, miền đất này đã trở thành quê hương thứ hai của ông Ba Trà. Ông sống trong sự cưu mang đùm bọc của bà con, cô bác, của đồng chí, đồng đội Trung đoàn 1 U Minh. Trong một trận đánh ở vùng Long Mỹ (1966), Ba Trà bị thương phải nằm lại giữa cánh đồng, nếu không có người dân che chở thì chắc hẳn ông đã sa vào tay giặc. Sau đại thắng mùa xuân 1975, khi non sông vừa liền một dải thì ông Ba Trà và nhiều đồng đội khác đã gần như ngay lập tức bước vào cuộc chiến đấu mới, vì sự bình yên của dải biên giới Tây Nam Tổ quốc. Tiếp đó là gần 10 năm cùng lực lượng vũ trang Quân khu 9 làm nghĩa vụ quốc tế, giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng.
Hơn nửa thế kỷ trong quân ngũ, đi qua ba cuộc chiến tranh, Đại tướng Phạm Văn Trà đã trải qua hầu hết những thang bậc của người lính. Từ chiến sĩ liên lạc, bộc phá viên, tổ trưởng tổ ba người, phát triển lên cán bộ trung đoàn, sư đoàn, quân khu, rồi Thứ trưởng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị; được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Có thể nói, cuộc đời của ông gắn liền với trận mạc, được trui rèn qua khói lửa chiến tranh cách mạng. Mọi kinh nghiệm và ý tưởng nơi ông đều nảy sinh từ những trải nghiệm trong thực tiễn cuộc sống, chiến đấu. Thí dụ, qua trận thắng quân Pôn Pốt ở núi Phú Cường, một trận đánh “khẳng định sự phát triển nhảy vọt về trình độ tổ chức chỉ huy tác chiến hiệp đồng binh chủng”, ông đúc kết: “Chấp hành triệt để mệnh lệnh cấp trên nhưng chấp hành tới mức thụ động, thiếu sáng tạo, thiếu bản lĩnh… không phải là chuẩn mực của người cán bộ giỏi”. Trong thời gian giữ chức Tư lệnh Quân khu 3, ông càng thấm thía: “những gì xuất phát từ ý của dân, thiết thực đối với đời sống của dân sẽ có sức sống lâu bền, không ngừng sinh sôi nảy nở”. Cũng do thường xuyên đi xuống các địa bàn, mà ý tưởng “phải đưa dân ra sát biên giới, dân phải ra để giữ cột mốc biên giới” hình thành và trở thành quyết tâm lớn của ông, một vị tướng gần dân. Điều đó cắt nghĩa vì sao trong nhiều trường hợp xử lý các điểm “nóng”, ông xuống gặp trực tiếp người dân, lắng nghe dân nói và xem dân cần gì, để từ đó bàn cách tháo “nút” một cách thấu tình đạt lý.
Hơn 50 năm trận mạc và công tác, với bề dày chiến công và thành tích rất đáng tự hào, song với bản tính khiêm nhường, ông chỉ mới thể hiện một phần nhỏ trong cuốn hồi ký. Cái chính là ông muốn thông qua những trang viết, “tỏ lòng biết ơn, tri ân đồng chí, bạn bè, bà con cô bác từng gắn bó với tôi suốt những năm chiến tranh đầy gian khổ hy sinh; từng chia nhau niềm vui, nỗi buồn, nhận hy sinh về mình, dành cho tôi sự sống và sự giúp đỡ, động viên trong những tháng năm sau này”.
Tuy bố cục các chương có phần dàn trải, ít đột biến, hiếm lời thoại, song với lối kể chuyện chân chất, mực thước; văn phong giản dị, giàu tình cảm, Đời chiến sĩ của Đại tướng Phạm Văn Trà là một cuốn hồi ký rất đáng đọc và suy ngẫm. Đặc biệt, với các sĩ quan trẻ và những quân nhân muốn gắn bó lâu dài với binh nghiệp, có thể coi đây như một cuốn sách “gối đầu giường”.
Nguyễn Minh Ngọc