QĐND -Đến nay, đã có khá nhiều bài viết về thành Hà Nội ở các góc độ khác nhau, trong những giai đoạn lịch sử khác nhau, nhưng qua lời kể của một học giả người Pháp Lu-uy Bơ-da-xi-ê (Louis Bezacier), thành viên Viện Viễn Đông bác cổ, chúng ta sẽ có thêm nhiều thông tin quan trọng về công trình này trong thời gian bị người Pháp chiếm đóng.
Giống như các thành cổ của người An Nam xây dựng vào thế kỷ XVIII - XIX, thành Hà Nội được xây dựng phỏng theo phong cách Pháp - kiến trúc Vô-ban (Vauban). Năm 1790, với sự giúp đỡ về mặt kỹ thuật của Ô-li-vi-ê đờ Puy-ma-nen (Olivier de Puymanel), thành đầu tiên được vua Gia Long xây dựng theo phong cách kiến trúc Vô-ban là thành Sài Gòn. Có giả thuyết cho rằng, vị kiến trúc sư này cũng đồng thời là tác giả của công trình thành Hà Nội. Nhưng trên thực tế, Ô-li-vi-ê đờ Puy-ma-nen đã mất từ năm 1799, nghĩa là ba năm trước khi Nguyễn Ánh chiếm Hà Nội (ngày 20-7-1802). Vào thời điểm đó, bên cạnh Gia Long còn có một số tên tuổi người Pháp khác là: Se-nhô (Chaigneau), Van-ni-ê (Vannier), Phoóc-săng (Forsans), Đét-xì-pi-ô (Despiau) và tất nhiên, một trong số họ sẽ là người được giao nhiệm vụ thiết kế bản vẽ.
Thành Hà Nội thiết kế theo phong cách kiến trúc Vô-ban, mỗi cạnh dài chừng một cây số. Đến triều Minh Mạng, người ta vẫn sử dụng phong cách kiến trúc này để xây phần lớn các thành tại Bắc Kỳ. Thành hình vuông và khá rộng được xác định như sau: Phía Bắc là đại lộ Các-nô (Carnot-nay là phố Phan Đình Phùng); phía Đông là đại lộ Bờ-ghi-e đờ Lít-xì-lơ (Brière de l’Isle-phố Lý Nam Đế); phía Nam là phố Duy-vi-li-ê (Duvillier-phố Trần Phú) và phía Tây là đại lộ Ăng-ri Đoóc-lê-ăng (Henri d’Orléans-đường Hùng Vương).
Mỗi mặt của thành Hà Nội có ba thành liên giáp, hai pháo đài và một khu công sự ngoài tại mỗi góc. Các mặt Đông, Tây và Bắc, mỗi mặt trổ một cửa ra vào theo hướng thành liên giáp trung tâm. Chỉ có mặt phía Nam gồm 2 cửa ra vào được trổ tại khu vực trung tâm hai thành liên giáp cuối cùng. Mỗi cửa được bảo vệ bằng một lũy bán nguyệt biệt lập với tường thành. Một cây cầu gạch nối liền cửa thành với lũy bán nguyệt. Cửa thứ hai được trổ tại mặt phải của lũy bán nguyệt thông ra khu vực bên ngoài cũng bằng một cây cầu gạch. Những tấm gỗ dày tạo thành phương tiện phòng thủ quan trọng khi dùng để đóng một trong những chiếc cửa này. Cuối cùng là một con hào lúc nào cũng ngập nước, rộng 20 - 40m bao quanh tường thành.
 |
Điện Kính Thiên trong thành cổ Hà Nội thời điểm bị quân Pháp chiếm. |
Khu hoàng cung: Chính giữa là điện Kính Thiên xây hơi lệch về phía Tây để lấy hướng phong thủy. Bên ngoài là tường vây hình chữ nhật, chiều rộng 120m và dài 350m. Bên trong chia làm hai sân: Sân chính ở phía Nam và sân phụ ở phía Bắc. Hai sân này được ngăn cách bằng bức tường xây bên phải điện Kính Thiên và thông nhau bằng hai cổng nhỏ. Bên trong khu vực Cấm thành chính là nơi vua ở. Người ta vào khu vực này bằng nhiều cửa, trong đó cửa chính nằm ở phía Nam được gọi là Đoan môn. Các mặt bên có hai cửa khác dẫn vào cửa chính. Hai cửa này là cửa dẫn tới trụ sở Ban chỉ huy Pháo binh. Cửa Đông được gọi là cửa Đồng Hồ trông ra phố Cửa Nam. Cửa Tây trông ra đại lộ Pi-e Pát-xì-ki-ê (Pierre Pasquier-nay là phố Hoàng Diệu). Khu hoàng cung được xây dựng ở phần trong cùng của sân phụ và điện Kính Thiên được xây trên nền điện giữa hai sân này.
Xung quanh hoàng cung được bố trí nhà ở, nơi làm việc của các quan lại và của Phủ Toàn quyền: Tổng đốc, đề đốc, tuần phủ, bố chánh, án sát... Tuy nhiên, từ năm 1885, người Pháp đã phá hủy các văn phòng làm việc này để xây doanh trại cho Trung đoàn bộ binh thuộc địa số 4, Trung đoàn pháo binh thuộc địa số 9, Trung đoàn binh lính khố đỏ Bắc Kỳ số 9… Nhiều ngôi chùa đã được dựng lên ngay trong khu vực tường bao quanh thành nhưng đến giờ, không một ngôi chùa nào còn tồn tại.
Tòa thành có 5 cửa, được các đội lính cơ thay nhau bảo vệ và doanh trại của các đội lính này được dựng ở hai bên phải, trái của mỗi cửa này trong các khu nhà hình chữ nhật. Cửa Bắc nằm trên đại lộ Các-nô, đối diện với phố Đi-ơ-lơ-phít (Dieulefils-phố Đặng Dung). Cửa Đông nằm ở đoạn giao nhau giữa phố Ma-ghê-san Dóp-phờ (Maréchal Joffre-phố Cửa Đông) và phố Xi-ta-đen-lờ (Citadelle-phố Đường Thành). Cửa Đông-Nam nằm ở đoạn giao nhau giữa phố Ma-ghê-san Ga-li-ê-ni (Maréchal Galliéni-phố Trần Phú, đoạn phía Đông) và phố Giê-nê-gan Ba-đen (Général Baden-phố Tôn Thất Thiệp) trên trục tuyến phố Giê-nê-gan Ba-đen. Cửa Tây-Nam nằm giữa đại lộ Phê-ních Phô-gờ (Félix Faure-phố Trần Phú), trên trục tuyến của tòa nhà Trường Cao đẳng tiểu học nữ sinh Pháp. Cửa Tây ở vào vị trí bồn tròn ngã tư giữa đại lộ Bờ-ghi-e đờ Lít-xì-lơ và đại lộ Pu-gi-ni-ê (Puginier-phố Điện Biên Phủ) đối diện với lối vào Phủ Toàn quyền, gần công viên Bách Thảo.
 |
Cửa Bắc thành Hà Nội nhìn từ phía trong. Ảnh tư liệu |
Các cửa thành Hà Nội được xây bằng gạch rất đẹp. Phía trên mỗi cửa đều có khắc tên cửa trên một khối đá hình chữ nhật. Đến năm 1942, trong số 5 cửa thành, chỉ duy nhất cửa Bắc nằm trên đại lộ Các-nô là được bảo toàn. Phía trên vòm cửa có 3 chữ “Chính Bắc môn”. Một khu nhà dùng làm nhà ở cho đội lính đã thay thế chòi canh. Ở mặt ngoài, người ta nhận thấy có rất nhiều hố-hậu quả của vụ tấn công thành Hà Nội lần thứ hai do quân đội Pháp thực hiện vào ngày 25-4-1882. Đã có một bản khắc ghi lại vụ tấn công này với sự tham gia của ba pháo thuyền Phăng-pha-gờ (Fanfare), Mát-suy (Massue), Ca-ga-bin-nờ (Carabine) và nhiều lực lượng khác theo lệnh của Đại tá hải quân Ăng-ri Ghi-vi-e-gờ (Henri Rivière) - chỉ huy cuộc tấn công thành Hà Nội. Ông ta cũng là người Pháp đầu tiên vào thành Hà Nội bằng cửa này. Trước đó, Thiếu tá hải quân Phăng-xi Gác-ni-ê (Francis Garnier) đã vào thành Hà Nội bằng cửa Đông-Nam (ngày 20-11-1873) và ra ngày 21-12 cũng năm đó bằng cửa Tây-Nam để đánh đuổi quân Cờ đen khi tấn công thành Hà Nội. Phăng-xi Gác-ni-ê đã chết trong vụ tấn công này.
Một phần của bờ thành phía Tây, nằm tại vị trí của kho thuốc súng cũ, đến năm 1942 được quy hoạch thành công viên, dọc đại lộ Bờ-ghi-e đờ Lít-xì-lơ, đối diện với Sở Thanh tra Lao động là di tích duy nhất của pháo đài Tây Nam (nằm giữa cửa Tây và khu công sự ngoài Tây-Nam). Một khu công sự lẻ hình bán nguyệt do Phăng-xi Gác-ni-ê xây dựng vẫn còn tồn tại và nằm giữa những khu nhà xây của các thầy tu dòng Đô-mi-ních (Dominic).
Bên ngoài cửa Bắc và tường của pháo đài này không còn bất cứ dấu vết nào của tường thành Gia Long.
Trong số những di tích còn giữ lại, chỉ duy nhất Cột cờ được xây dựng vào năm 1812 là còn nguyên vẹn. Thật vậy, sau khi chiếm thành được ít lâu, Ăng-ri Ghi-vi-e-gờ đã sử dụng Cột cờ này làm trạm điện tín quang học. Đến năm 1887, nó được dùng làm khán đài cho những cuộc đua ngựa. Trường đua ngựa được đặt tại vị trí hiện nay của sân vận động, giữa tháp canh và Đoan Môn (cửa Nam hoàng cung).
Cho đến năm 1942, các cửa ra vào tại khu vực tường vây vẫn còn nguyên như lúc ban đầu, trừ cửa Nam (Đoan môn) đã nhiều lần bị sửa đổi.
Điện Kính Thiên nằm ở chính giữa khu vực hoàng cung không còn lại gì ngoài những chiếc dầm cầu thang tuyệt đẹp tại mặt chính và mặt sau. Dựa vào nghệ thuật điêu khắc hết sức tinh xảo, có thể xác định các dầm cầu thang này có từ thế kỷ XV. Năm 1873, ban đầu điện Kính Thiên được Phăng-xi Gác-ni-ê chuyển thành nhà ở. Dường như ông ta khá hài lòng khi sống trong đó vì trong thư gửi Đô đốc Đuy-pơ-ghê (Dupré), khi đó là Thống đốc Nam Kỳ, ông ta viết: “Tôi đã cho chiếu sáng và phân chia tòa nhà lớn của người An Nam, từng được dùng làm nơi vua ở. Nó được bố trí rất hợp lý. Khi đến đây, ông có thể thấy một chỗ ở không hiện đại nhưng ít ra nó cũng khá tiện nghi”.
Sau khi Ăng-ri Ghi-vi-e-gờ chiếm thành Hà Nội, một đại đội bộ binh do Đại úy Gơ-thu-vây (Retrouvey) chỉ huy đã đóng quân tại điện Kính Thiên. Đại úy Gơ-thu-vây tiến hành thu hẹp và thay đổi hoàn toàn dáng vẻ ban đầu của điện Kính Thiên. Năm 1886, do việc cải tạo không đem lại bất kỳ lợi ích quân sự nào nên điện Kính Thiên đã bị phá hủy để lấy chỗ xây trụ sở của Ban Chỉ huy Pháo binh. Phía sau điện Kính Thiên là Hậu lâu hay còn gọi là Lầu Công chúa. Tuy nhiên, ngay từ năm 1876, Hậu lâu đã bị hư hỏng hoàn toàn và đến nay không còn bất cứ dấu vết nào.
Trên đây là một số công trình xây dựng tiêu biểu và cũng là những di tích còn lại của thành cổ Hà Nội cho tới năm 1942. Tất cả phần còn lại đã bị phá hủy từ những năm 1894 - 1897. Tuy nhiên, ngay sau khi Viện Viễn Đông bác cổ Pháp chính thức thành lập vào ngày 20-1-1900, các di tích lịch sử trên toàn bán đảo Đông Dương đã trở thành đối tượng được chăm sóc chu đáo của tổ chức này và vì thế nhiều di tích lịch sử ở Hà Nội đã thoát khỏi sự xâm hại, cho dù vô tình hay dưới danh nghĩa vì sự phát triển của thành phố.
(Thông tin bài viết được dịch từ tài liệu lưu trữ, ký hiệu: TC 826-Hebdomadaire illustré de l’Indochine No 100, 1942, hiện bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I).
HỒNG NHUNG - HOÀNG HẰNG