Cách nay hơn 60 năm, khi đất nước ta bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Theo đó ngày nay, văn hóa vẫn đảm đương sứ mệnh “soi đường” cho công cuộc hội nhập và phát triển đất nước. Quan điểm đó chính là tiền đề của văn hóa hội nhập. Không có văn hóa hội nhập thì không thể hội nhập thành công!
    |
 |
Du khách nước ngoài cùng vui múa sạp ở Sa Pa-Lào Cai. Ảnh: TRỌNG ĐỨC |
Còn nhớ, từ cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã có khuyến cáo rằng: Bước sang thế kỷ 21, nền khoa học của nhân loại có những bước tiến như vũ bão, làm đảo lộn nhiều giá trị tưởng như đã ổn định. Những thành tựu kỳ diệu của khoa học, công nghệ... sẽ kéo theo những thay đổi về văn hóa, tác động sâu sắc đến các giá trị văn hóa truyền thống theo hướng tích cực hoặc tiêu cực. Vì vậy, các dân tộc cần chuẩn bị cho quá trình hội nhập một cách thông minh, trên cơ sở bảo tồn vững chắc những tinh hoa truyền thống của nền văn hóa dân tộc mình, góp phần làm phong phú nền văn hóa chung của nhân loại. Nội dung của sự “chuẩn bị” ấy chính là xây dựng văn hóa hội nhập cho dân tộc để tham gia hội nhập toàn cầu, trong đó có hội nhập văn hóa.
Từ trước tới nay, Đảng ta luôn luôn đề cao vai trò của văn hóa trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng xác định văn hóa là động lực và nền tảng của phát triển bền vững. Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII đã xác định phải “Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế”. Có thể nói, đây là cốt lõi của văn hóa hội nhập Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa. “Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế” vì văn hóa không đứng ngoài chính trị và kinh tế. Hội nhập văn hóa cũng đồng thời diễn ra trong quá trình hội nhập kinh tế. Tuy nhiên, quá trình hội nhập kinh tế diễn ra theo xu hướng hòa đồng các giá trị kinh tế; còn quá trình hội nhập văn hóa thì vấn đề cốt tử là phải bảo tồn cho được các giá trị riêng biệt, đó chính là bản sắc văn hóa của dân tộc. Và nữa: Hội nhập văn hóa có những đặc thù riêng, không giống hội nhập trong các lĩnh vực khác. Đó là sự thống nhất giữa “nhận” và “cho”. “Nhận” cái mới của nước ngoài nhưng chúng ta cũng phải “cho” thế giới, đóng góp cho thế giới những điều đặc sắc của văn hóa Việt Nam. Tức là, trong quá trình hội nhập văn hóa, chúng ta không chỉ tiếp biến văn hóa nhân loại, “gạn đục khơi trong” để làm giàu có thêm kho tàng văn hóa Việt Nam, mà văn hóa Việt Nam có thể đóng góp những giá trị đặc sắc gì của mình vào văn hóa chung của nhân loại. Văn hóa Việt Nam có đủ tầm vóc, bản lĩnh, tự tin để tham gia định hình những giá trị chung trong văn hóa của nhân loại. Đó là một nội dung quan trọng của văn hóa hội nhập trong hội nhập văn hóa.
Giao lưu và hội nhập văn hóa có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển nền văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Lịch sử nhân loại chưa có một nền văn hóa nào-kể cả những nền văn hóa lớn và có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ-mà có thể tồn tại và phát triển một cách biệt lập, riêng biệt, khép kín với các nền văn hóa khác. Nhưng hội nhập bao giờ cũng có hai mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực là giao lưu và hội nhập sẽ giúp cho văn hóa mỗi dân tộc luôn phát triển, tiếp nhận được những tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác để bồi đắp thêm cho văn hóa của dân tộc mình, đồng thời cũng quảng bá được những giá trị văn hóa của dân tộc mình cho các dân tộc khác. Tuy nhiên, cùng đó là nguy cơ “đồng hóa” các hệ giá trị, các chuẩn mực văn hóa dân tộc, đe dọa tính sáng tạo của các nền văn hóa dân tộc, dẫn đến tình trạng “vong bản”, thậm chí thủ tiêu các giá trị văn hóa dân tộc. Điều này trong lịch sử đã từng xảy ra với một số dân tộc trên thế giới.
Bản sắc văn hóa của một dân tộc chính là cốt cách của dân tộc ấy. Cốt cách dân tộc là những phẩm chất tương đối ổn định và bền vững, bởi nó được hình thành và tồn tại trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc. Đồng thời, cốt cách dân tộc được thể hiện rõ nhất là ở lĩnh vực văn hóa, làm nên bản sắc văn hóa của dân tộc. Vì vậy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cũng là giữ gìn cốt cách của dân tộc. Và một nền văn hóa giữ được cốt cách dân tộc sẽ là một nền văn hóa có đủ nội lực đề kháng, chống lại các cuộc “xâm lăng văn hóa” từ bên ngoài. Một nền văn hóa như vậy mới đủ tự tin và bản lĩnh để tiếp nhận chọn lọc những giá trị văn hóa của các dân tộc khác, “dân tộc hóa” những giá trị văn hóa nhân loại để đồng hành với nhân loại.
    |
 |
Áo dài Việt Nam, một sản phẩm của quá trình tiếp biến văn hóa. Ảnh: Tổng cục Du lịch Việt Nam |
Bản sắc dân tộc là sản phẩm gắn với từng bước phát triển của cộng đồng dân tộc. Dân tộc Việt Nam trải qua nghìn năm Bắc thuộc, trăm năm Pháp thuộc và hai mươi năm xâm lược của đế quốc Mỹ. Trong quá trình đó, các thế lực ngoại bang luôn tìm mọi cách đồng hóa dân tộc ta về văn hóa. Nhưng văn hóa Việt vẫn trường tồn, vẫn giữ được bản sắc dân tộc. Được như vậy là nhờ ông cha ta đã giữ được cốt cách dân tộc, biết cách bảo vệ bản sắc văn hóa của dân tộc; đồng thời biết tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại, “Việt hóa” thành công những giá trị văn hóa từ bên ngoài. Nội lực ấy của nền văn hóa Việt Nam là một nguồn lực làm nên sức mạnh tổng hợp, giúp dân tộc Việt Nam chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giữ vững bờ cõi.
Tuy nhiên, trong quá trình giao lưu văn hóa hiện nay, sự xâm nhập, thẩm thấu các giá trị văn hóa ngoại lai vào nước ta diễn ra thông qua nhiều hình thức, con đường rất tinh vi, thông qua các loại hình nghệ thuật phức hợp, khiến bên tiếp nhận nhầm tưởng mình đang thụ hưởng một thứ văn hóa quen thuộc của chính dân tộc mình. Ấy là chưa kể, đang có những âm mưu làm mờ nhòe ranh giới, thậm chí làm “mù nhận thức” của người tiếp nhận để áp đặt một nền văn hóa phục vụ mục đích kinh tế và chính trị. Có thể nói, đấy là những cuộc xâm lăng không tiếng súng, nhưng nó có thể giết chết tinh thần của dân tộc. Nguy cơ ấy đòi hỏi dân tộc ta phải khẳng định bản lĩnh văn hóa của mình, để không tự đánh mất mình, không hòa tan và cuối cùng biến mất trong khát vọng tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá.
Cũng như trong lịch sử, nếu nền văn hóa truyền thống của Việt Nam không đủ sức đề kháng, cốt cách văn hóa Việt Nam không thẩm thấu và di truyền vào con tim, khối óc, huyết quản... của mỗi con dân nước Việt, thì dân tộc Việt Nam đã bị bại liệt, đã bị thủ tiêu bởi các thế lực xâm lược hùng mạnh hơn nhiều lần. Ngày nay, nếu nền văn hóa dân tộc Việt Nam bị “hòa tan”, thì mảnh đất hình chữ S vẫn còn đó, nhưng hồn cốt Việt Nam sẽ đâu còn nữa trong thời đại toàn cầu hóa?
MAI NAM THẮNG