Thiếu tướng Nguyễn Xuân Sang, Tư lệnh Binh đoàn 15 trò chuyện với các già làng Brút-ngo, Tây Nguyên. Ảnh: NGUYỄN DU

Thoạt nhìn hình dáng bên ngoài, tôi nghĩ Thiếu tướng Nguyễn Xuân Sang là người có cuộc sống nhàn nhã, yên ổn. Khi nói chuyện hóa ra lại không phải như thế. Đời vị Tư lệnh Binh đoàn 15 anh hùng này cũng gập ghềnh, cũng lam lũ...

Sinh ra trong một gia đình nghèo khó, khi cậu bé Nguyễn Xuân Sang vừa tròn ba tuổi thì mẹ mất. Cái cú sốc khủng khiếp đó có lẽ cũng là nguyên cớ để hạt giống tình nghĩa gieo thẳng vào trong con người Nguyễn Xuân Sang từ đấy. Mặc dù bố tục huyền, nhưng Nguyễn Xuân Sang vẫn được gia đình nuôi cho ăn học hết phổ thông. Vừa tròn 18 tuổi, Sang nhập ngũ, được phiên vào Tiểu đoàn 49-tỉnh đội Quảng Bình và đã từng là xạ thủ trung liên. Ông đánh nhau thuộc loại vừa lì vừa bạo cho nên được phong làm tiểu đội trưởng khi chưa kịp là đảng viên. Hồi tiểu đội ông quần nhau với địch ở chiến trường Quảng Trị, hai bên cài răng lược, có những lúc chỉ cách nhau vài chục mét, quăng lựu đạn mà lỡ mạnh quá thì vọt qua cả đầu đối phương. Chỉ với một khẩu súng, một bi đông nước, một nắm cơm trộn bùn đất, vậy mà tiểu đội của Nguyễn Xuân Sang đã làm cho địch bạt vía vì những cuộc đột kích táo bạo, chớp nhoáng. Đó là thời kỳ ác liệt, dữ dội đến mức hầu như không ai hình dung sẽ có ngày sống sót mà trở về. Nhưng rồi ông cũng vượt qua được chết chóc mà trở về. Đất nước thống nhất, đơn vị Nguyễn Xuân Sang lại tiếp tục sang nước bạn làm nhiệm vụ, rồi trở về truy quét phỉ Fulrô trên địa bàn Tây Nguyên...

Năm 1976, khi đã 25 tuổi, Nguyễn Xuân Sang được người bạn cùng đơn vị làm mai cho một cô giáo và chính thức lập gia đình. Mang tiếng là vợ chồng, nhưng gần nhau chả mấy. Cưới vợ được đúng 6 ngày, ông lại khoác ba lô trở lại đơn vị và khi đứa con được hai tuổi ông mới có dịp gặp nó. Tính ra gần mười năm, ông trả phép 5 lần. Chỉ đến năm 1985, khi được điều về Binh đoàn 15 vừa thành lập ở Tây Nguyên thì ông mới chuyển cả gia đình vào theo. Từ đó, vợ chồng mới ở gần nhau. Mà nói là ở gần nhau vậy thôi, thực ra ông cũng cứ “mất hút” trong đơn vị, mọi việc “hậu phương” đều phó thác cho một tay vợ xoay xở, chèo chống. Được cái vợ ông cũng thuộc loại xông xáo, tháo vát, cái gì cũng mày mò làm được. Từ một cô giáo chân yếu tay mềm, vợ ông trở thành người đàn bà bươn trải, biết trồng cây cao su, biết chăm sóc cây cà phê, biết làm nương làm rẫy cùng bà con dân tộc và biết cả làm... phở để bán mặc dù chưa hề đặt chân ra Bắc. Thương vợ vất vả, hễ rảnh chút nào là ông đỡ đần giúp bà. Đến khi bà làm chân phân phối hàng cho một đại lý lớn ngoài thị xã, hết giờ làm việc cơ quan ông lại tranh thủ đi bỏ mối hàng cho vợ. Có lần, ông đèo hàng cồng kềnh, ngã xe máy, phải vào nằm viện đến 2 tháng trời. Khi đời sống kinh tế khá lên một chút, tưởng đã có thể lơi chân lơi tay thì bà lại bị tai nạn do sốc thuốc. Hôm ấy bà mệt, mà ông thì đang bận họp trong Binh đoàn nên tự bà đến trạm xá khám. Y tá xem xét qua loa xong liền tiêm cho bà. Mũi tiêm vừa rút ra bà đã bất tỉnh nhân sự và bị nằm liệt đến gần hai năm trời. Trong hai năm bà bị liệt đó, ông đã phải chăm sóc bà, bón cho bà từng thìa cháo, từng ngụm nước. Tình cảm ông bà đối xử với nhau thế khiến ai cũng thấy khâm phục. Vì thế mà mọi người tín nhiệm nài nỉ ông bà đảm nhận chức tổ trưởng tổ hòa giải ở địa phương, cái chức “xông vào dập lửa” mà chẳng có đồng tiền “trách nhiệm” nào, như cách nói vui của ông bà. Được cái đức độ của vợ chồng ông bà cũng khiến cho người ta nghe theo. Kỷ niệm nhớ nhất sau không biết bao nhiêu cuộc hòa giải cho các cặp vợ chồng là lần hai người đang ăn sáng thì một cháu bé gọi điện bảo bố mẹ cháu đang cãi nhau. Ông bà bỏ dở suất ăn phóng xe máy đến. Cuộc chiến giữa hai vợ chồng nhà nọ đang ở cao trào, chị vợ cầm ghế quăng chồng, quăng luôn vào chiếc xe đờ-rim mới mua của vợ chồng ông bà làm nó vỡ một mảnh rất to. Chiếc xe hồi đó là cả một tài sản...

Sau lần ấy, bà bảo ông: “Hay là mình thôi, không đi hòa giải nữa. Chuyện vợ chồng họ, biết ai đúng ai sai”. Ông không đồng ý, ông nói: “Ai đúng, ai sai thì tính sau, nhưng không thể để họ cãi lộn nhau rồi có thể dẫn tới đổ vỡ gia đình”. Bà thắc mắc: “Mình đi hòa giải mãi thế này, rồi thì ai hòa giải cho mình”. Ông lắc đầu: “Không cần ai cả, vì vợ chồng mình sẽ tự thu xếp được”. Đó là lời nói chân thành và sự thật như thế. Mồ côi mẹ từ khi mới lên ba, ông thấm thía giá trị của một gia đình vẹn nguyên. Vợ chồng ôngå sống với nhau mấy chục năm trời mà lúc nào cũng ríu rít như chim vừa kết tổ. Đời ông trọng tình nghĩa. Vì tình nghĩa mà đã có lúc ông dám đơn thương độc mã đứng lên bảo vệ đồng đội mình khi họ bị tai nạn oan khuất trong khi làm kinh tế. Ông bảo vệ họ, bởi vì ông biết rằng họ trong sáng, họ không phải là những kẻ thu vén cá nhân, cái yếu điểm của họ là quá ngây thơ, quá đơn giản trên mặt trận kinh tế vốn đầy rẫy những biến hóa phức tạp.

Thời gian đầu khi lên Tây Nguyên này, cả gia đình ở trong một gian nhà hẹp của khu tập thể. Đã chui rúc khổ sở thế rồi, ông thấy người bạn cùng đơn vị phải thuê nhà ở xa nơi làm việc nên kéo luôn cả gia đình người ấy về ở cùng. Nhà đã hẹp thành ra càng hẹp hơn. Ngay cả ở cương vị Tư lệnh, khi đưa ra các quyết sách lớn tạo lên sự phát triển mang tính bứt phá cho Binh đoàn, ông cũng nhận được sự đồng thuận nhất trí cao của anh em. Họ nhất trí vì hiểu rằng ông không đề xuất ngẫu hứng, vu vơ mà có cơ sở, và nền tảng căn bản chính là nghĩa tình với mảnh đất này, với Binh đoàn này. Hai công thức nổi tiếng: Suối-dân-bộ đội, tức là ưu tiên cho dân sản xuất ở gần nước, sau đó mới tới bộ đội ở vòng ngoài, và: Binh đoàn gắn với tỉnh; Công ty gắn với huyện, xã, Đội gắn với bản, làng mà Nguyễn Xuân Sang đưa ra đã đủ nói lên tình cảm của ông. Cái hồi hàng chục nghìn bà con dân tộc do hiểu lầm mà tiến về thị xã Plei-cu đã khiến nhiều người hoang mang lo sợ. Vậy mà ông mặc quân phục chỉnh tề, bình tĩnh xuất hiện giữa đám đông đang tràn đầy kích động để nói chuyện chân tình, thẳng thắn với họ.

Những người dân có mặt trong cuộc tụ tập trái phép ấy sau này thổ lộ: “Nghe nó nói mới biết mình sai. Nó với bộ đội của nó giúp mình mà mình không hiểu, lại tin theo bọn xấu đi lên thị xã gây chuyện, làm nó buồn”. Bà con dân tộc coi “tướng Sang” như anh em của họ, còn “tướng Sang” thì coi Tây Nguyên như vùng quê thứ hai của mình...

Nhà văn BÌNH PHƯƠNG