Cast Vala đã sáu tuổi, không thể không đi học, để ít nhất cũng biết chữ, ký được tên, đọc được các thông báo… Đến trường ở nội trú thì học được, lại thuận tiện cho con, nhưng... đào đâu ra tiền? Bố mẹ thường tự hỏi như vậy khi kín đáo nhìn cô bé da đen nhánh, mắt long lanh nhí nhảnh, mặc bộ váy áo màu đỏ đang say sưa đùa chơi với con mèo nhỏ, vằn trắng vàng rực rỡ. Ở cuối làng, có cụ ông Écelado Écoula, một công nhân làm đường, nghỉ hưu đã gần 20 năm. Dù mưa gió thế nào, cụ vẫn hằng ngày đi dạo rất lâu trên các nẻo đường toàn cát sỏi hung hung trong khu vực. Cụ đi lúc nhanh lúc chậm, mắt thường âu yếm nhìn đường dưới chân, thỉnh thoảng bao quát xung quanh mênh mông bất tận và bầu trời Cameroon như luôn bừng bừng thăm thẳm. Đôi lần cụ tạt qua nhà Cast Vala, vừa để nghỉ chân, vừa để trò chuyện chút đỉnh với bố mẹ cô bé. Thế nên, cụ vô tình chứng kiến những cái nhìn xiết đỗi yêu thương nhưng đượm buồn pha lẫn chua xót đó. Cụ thương cô bé một thì thương bố mẹ cô bé mười. Cụ nhủ thầm: “Chúng nó cũng như con cháu ta. Các con ơi, vạn sự khởi đầu nan. Thuở ít tuổi như các con, chúng ta cũng cực nhọc lắm”.

leftcenterrightdel
Minh họa: PHÙNG MINH

Một hôm, cụ bảo bố mẹ Cast Vala: “Các con sao không cho cháu sang học ở trường làng bên, hơn một cây số đi lại thôi mà…”. “Thưa bố, nhưng bên ấy là huyện khác, sợ họ không nhận đâu ạ”. Hai huyện kề nhau nhưng thuộc hai vùng khác biệt về ngôn ngữ. Vùng chuyên tiếng Pháp, vùng chuyên tiếng Anh. Ấy là do lịch sử để lại. Không biết từ bao giờ, hai vùng có vẻ thù nhau ngấm ngầm. “Hợp tình hợp lý là được. Các con cứ sang xem. Bố tin họ thuận”. “Lạy Chúa, mong thầy hiệu trưởng bên ấy cũng rộng lòng như bố”. Mẹ bé Vala, mũm mĩm, đang khoan thai xào nấu bên bếp lửa củi cháy rừng rực, kính cẩn đưa mắt nhìn cụ Écoula đang vuốt chòm râu bạc phơ bằng hai bàn tay rắn rỏi. Mẹ nở nụ cười hạnh phúc trên gương mặt da đen sạm màu sương gió. Bố bé Vala, cao lêu nghêu, đang đứng trên thang chữa cái bóng đèn trần bị hỏng, thì gập người xuống như người châu Á vái lạy thần, Phật. Rồi, không ai bảo ai, ba người lớn đưa mắt cho nhau, biểu thị đồng tình, lạc quan, tin tưởng, và cùng dồn mắt vào cô bé đang ôm lấy con mèo trắng vàng mà thơm lấy thơm để. Một khoảnh khắc kỳ diệu, không mấy khi chúng ta được hưởng…

Vài hôm sau, bố mẹ Cast Vala nghỉ việc một ngày, dắt con băng băng trên con đường ngoằn ngoèo giữa hai bên cát vàng tít tắp, điểm xuyết những bụi cây xác xơ nhưng vẫn xanh ngắt đến lóa mắt. Bố cứ thủng thẳng bước đĩnh đạc, những mệt nhọc lo toan thường nhật biến đâu cả. Mẹ vui vẻ hưởng ứng những trò nghịch ngợm của con gái. Đến chỗ những bụi cây ven đường cao rậm hơn hẳn, cô bé khẽ khàng rút bàn tay mát rượi khỏi bàn tay mẹ đang nắm, đi lùi lại và bất ngờ chạy núp vào một bụi rậm xa đường. Mẹ như chợt bừng tỉnh, bật cười khục khục. Mẹ thoăn thoắt chạy chỗ nọ chỗ kia, nhìn xem con bé ở đâu. Bố cũng sững lại, nhoẻn cười, thích thú quan sát hai mẹ con chơi trò mèo đuổi chuột. Bố bỗng vươn hai cánh tay hết tầm về hai bên, khi con gái từ khá xa sau mẹ, chạy thục mạng lên sát lưng mẹ và la lớn: “Hổ mang chúa! Hổ mang chúa!”. Mẹ chưa kịp quay lại nhìn, bé đã vọt lên trước dễ đến trăm mét rồi chững lại, đưa mắt về phía bố, có ý chờ. Bố thốt lên sung sướng: “Ôi, lạy Chúa!”. Phải, con gái bố khôn sớm lắm mà. Rắn hổ mang vùng ta rất dữ. Nó sẵn sàng nhảy bổ vào người, nếu người tỏ ra run sợ. Từ vài năm trước, lúc Cast Vala mới hai, ba tuổi, cụ Écelado Écoula đã mấy lần dặn rằng hễ gặp hổ mang, cứ bình tĩnh đứng im, nhìn thẳng vào nó, không hề sợ sệt; nó đang giương cao đầu, sẽ bổ ngay vào ta nếu ta bỏ chạy; nhưng cứ bình tĩnh nhìn nó, một hai phút sau, nó sẽ bỏ đi liền. Không may bị nó hay các loài rắn độc khác cắn, rịt vào vết thương lá rừng étaumit nhai giập. Con bé nghe lỏm, thế mà nhớ ngay, quả là giỏi. Bố và mẹ, trong chuyến đi này, cũng mang trong túi áo mỗi người một nắm lá rừng thần dược.

Đôi lần trêu đùa như vậy, con gái và bố mẹ đã tới Trường Tiểu học Araca. Gác cổng là một người da đen lai trắng đã đứng tuổi. Bác bước ra: “Chào anh chị và cháu. Mời ngồi chờ. Năm phút nữa mới đến giờ làm việc”. Sau khi biết mục đích của bố mẹ và bé Cast Vala, bác ghi vào một quyển sổ khá dày màu hồng để ở một chiếc bàn nhỏ, chếch bên cửa phòng trực, cạnh lối ra vào trường. Một phụ nữ da trắng, tuổi trung niên, cao lớn dắt chiếc xe đạp màu lơ, hình như xe Peugeot của Pháp, nhanh nhẹn đi vào. Chị dừng lại đọc thông báo trên quyển sổ, quay nhìn gia đình bé Vala, tươi cười đon đả: “Chào em. Chào anh chị. Mời cả nhà vào phòng khách”. Đó là hiệu trưởng, một người Pháp, làm dâu làng này. Hiệu trưởng nói rồi dắt xe nhanh nhẹn đi tiếp. Theo hướng dẫn của bác gác cửa, bé Cast Vala và bố mẹ tới một phòng nhỏ xinh xắn màu xanh lục, có kê một chiếc bàn tiếp khách và hai chiếc ghế dài song song, màu nâu thẫm. Chị hiệu trưởng vào ngay, ngồi đối diện với nhà Cast Vala. Biết được hoàn cảnh gia đình và nguyện vọng của bố mẹ cũng như của Cast Vala, chị hơi chau mày, trìu mến nhìn Cast Vala đang nép vào bên mẹ, đôi mắt có vẻ bối rối vì hồi hộp. “Thưa em và anh chị, trường Araca thuộc khu vực chỉ dạy tiếng Pháp. Từ làng nhà ta đổ xuống Limon là khu vực chỉ dạy tiếng Anh. Liệu em có học nổi bằng tiếng Pháp không, sợ lãng phí công sức và thì giờ”. Ở đây, cô ngầm nêu lên điều phi lý chưa hóa giải nổi: Đó là sự kỳ thị giữa hai khu vực nói hai thứ tiếng khác nhau, kỳ thị như kẻ thù, dù “gà cùng một mẹ”.

- Dạ thưa cô, chúng tôi suy nghĩ nhiều rồi ạ. Nếu không được học ở đây, cháu chỉ còn nước thất học-bố Cast Vala lên tiếng, giọng buồn man mác.

- Dạ vâng, xin cô hiểu cho, chúng em không thể xoay xở khác được ạ-mẹ Cast Vala tiếp lời.

Chợt nhớ ý ngầm khuyên bảo của cụ Écelado Écoula, mẹ quay sang con gái, hỏi: “Khó mấy con cũng học được, phải không nào?”. Bố cũng âu yếm nhìn thẳng vào mặt con đang cúi xuống và nhợt nhạt đi: “Nhất định thế chứ, Cast Vala?”. Cô hiệu trưởng đỡ lời cô bé: “Thế là đồng thuận rồi. Từ mai, em đến học ở lớp cô Louise nhé”.

Trường Araca là một trường đặc biệt. Ở đây, trẻ được học từ mẫu giáo cho đến hết tiểu học. Sáng kiến ấy là của cô hiệu trưởng. Chồng cô là một nhà báo Cameroon. Về làng chồng ở xứ sở toàn dân da đen này, cô nhanh chóng thấy cần ở lại làng, tiếp tục dạy học như ở bên Pháp. Ít nhất cũng vì cha mẹ chồng đã rất già, nên cần có con cháu bên cạnh… Chồng cô xin không làm phóng viên thường trú nữa để mỗi tháng một lần về với cha mẹ. Cô được hầu như mọi người dân trong làng quý trọng. Không ít học sinh vì e cô không vui mà đã cố gắng học tập hết sức. Một ngày kia, cô được hai cụ già tới xin gặp tại trường. Một cụ người làng Araca, cụ kia là cụ Écelado Écoula. Hai cụ là bạn đồng ngũ. Rời quân ngũ, hai cụ dù làm khác việc, vẫn thân thiết như thời còn trẻ… Quá bận, việc của hai cụ lại gấp, cô mời hai cụ sáng hôm sau-chủ nhật tới nhà cô. Hai cụ thích thú với ngôi nhà nhỏ bé nhưng sạch sẽ, cây cỏ xanh biếc chen hoa hồng hầu khắp xung quanh nhà. Đặc biệt, bố chồng cô hiệu trưởng cũng tầm tuổi hai cụ và cũng có nhiều tâm tư như hai cụ. Ba cụ trở nên thân thiết từ đấy... “Dạ thưa, hai bác gặp cháu có việc gì ạ?”. “Thưa cô, chúng tôi muốn xin cô cho một cháu ở làng Leman bên cạnh vào học ở trường làng mình”. “Bên này, chúng cháu không dạy tiếng Anh ạ”. Cụ Écelado Écoula trình bày gia cảnh ngặt nghèo của bé Cast Vala, rồi giọng cụ trầm hẳn xuống: “Thưa cô hiệu trưởng, chữ là chìa khóa của mọi chuyện. Biết tiếng Anh, lại thạo tiếng Pháp thì còn gì bằng…”. Biết con dâu bối rối, cụ bố chồng nâng niu đưa cho cô một tách trà thơm bốc khói: “Mời con thưởng thức đi… Trà Việt Nam, cụ đây-bố chồng nhìn cụ Écelado Écoula-vừa mang sang mời bố con mình…”. Hai cụ khách cùng nâng tách trà lên. Cô giáo vội nâng tách, khẽ chạm lần lượt vào tách ba cụ: “Cháu cảm ơn hai bác. Con cảm ơn bố nhiều ạ!”.

Cụ Écelado Écoula chậm rãi vuốt bộ râu trắng xóa trên gương mặt đen ngời sáng như một vầng mặt trời. Cụ thủ thỉ: “Một đồng đội cũ của tôi ở Angola gửi cho đấy. Cụ ấy kết bạn với mấy người Việt Nam sang Angola dạy học. Qua cụ ấy, tôi biết người Việt Nam do bị chiến tranh xâm lược chịu nhiều khốn khổ lắm, nhưng dũng khí và nhân hậu thì có thừa”. “Dạ cháu cũng có biết. Người châu Âu biết về Việt Nam và Colombia ít lắm ạ...”. Sự đồng cảm, về một điều tưởng như xa xôi và mơ hồ, đã khiến cô quyết định đón nhận cô bé Cast Vala, dù đôi chút “lăn tăn” vẫn còn. Ví như nếu có gì rắc rối… cô tin bố chồng và dân làng sẽ bảo vệ được cô, thuyết phục được cấp nào đó không thuận…

Bé Cast Vala nhập học được vài ngày, cô mời ba cụ già tới chứng kiến cảnh các bạn học của Cast Vala giúp bạn học tiếng Pháp. Buổi học nào cũng vậy, Cast Vala và ba bạn hoạt bát nhất lớp đến sớm nửa giờ. Các bạn thay nhau vừa giơ cho Cast Vala xem những đồ vật quen thuộc như chiếc bút, cái thước kẻ, quyển vở, quyển sách, vừa đọc chậm từ chỉ vật đó. Cast Vala đọc theo. Đọc bao giờ hoàn toàn đúng và tự nhiên thì được. Một vòng, hai vòng, ba vòng… Hai vòng cuối cùng, Cast Vala xướng từ trước, rồi giơ vật lên. Hiển nhiên, đôi lần, cô bé đọc nhầm hoặc nhớ sai, cả bốn rũ ra cười vui vẻ… Lối học đó là sáng kiến của cô Louise. Về sau, cô vẽ sẵn hình nhiều đồ vật và con vật, rồi cho mỗi học sinh xướng tên vật đó, khi một bạn đứng trên bảng, trương ra cho cả lớp. Tiếp theo, cả lớp đọc theo mỗi vật cô đưa ra… Cô gọi đó là học theo kiểu “trực quan sinh động”… Lối dạy như thế tỏ ra rất hiệu quả. Cast Vala sáng dạ. Cô Louise thật mừng… Mừng hơn là ba cụ già, cứ nín thở theo từng tiếng mà con bé phát ra, rồi cùng hòa nụ cười sung sướng, khi nó phát âm thật chuẩn. Cô hiệu trưởng lặng thầm theo dõi tất cả và tim rộn ràng những niềm vui mới…

NHẬT THẢO QUÂN (dịch)