QĐND - Tôi gặp Nguyễn Bảo lần đầu vào năm 1993. Bấy giờ tỉnh Ninh Bình mới được trở lại là tỉnh riêng sau hơn 10 năm hợp nhất, nên rất nhiều du khách, bạn bè vào Nam ra Bắc thường ghé để thăm thú, trao đổi… Lần ấy, Hội văn nghệ Ninh Bình được đón Chi hội Nhà văn Quốc phòng. Tại hội trường UBND tỉnh, nghe Thiếu tướng, nhà văn Hồ Phương giới thiệu thành phần khách, mới biết trong số hơn ba mươi nhà văn có Nguyễn Bảo và Phạm Hoa là “đồng môn” với tôi ở Trường Phổ thông cấp 3 Vĩnh Lộc, Thanh Hóa…
Nhà văn Nguyễn Bảo sinh năm 1948 tại xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc, cũng là quê anh. Vĩnh Thịnh ở phía nam, cách huyện lỵ hơn 10 cây số. Dạo ấy cùng lớp với tôi cũng có mấy bạn ở Vĩnh Thịnh. Có lẽ do nguồn nước hay thổ nhưỡng gì đó mà giọng nói người dân ở đây từa tựa như ở Thạch Thất, Quốc Oai của xứ Đoài mây trắng. Nguyễn Bảo học phổ thông, đều các môn, nhưng năng khiếu hơn là môn Văn học và đã đoạt giải nhất môn này trong kỳ thi học sinh giỏi lớp 10 toàn tỉnh. Sau đó anh vào Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội khóa 12, Khoa Ngữ văn. Chiến trường phía Nam chuyển động đang dần tới đỉnh điểm nên vừa kết thúc năm học thứ ba, Nguyễn Bảo lên đường nhập ngũ theo tiếng gọi của Tổ quốc. Ban đầu anh là phóng viên ch iến trường tại Mặt trận Trung Trung Bộ-một trong những miền đất được coi là nút thắt hàng đầu của cuộc chiến trước và sau Hiệp định Pa-ri - 1973.
Lớp sinh viên Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã được đào tạo chính quy, nên ta dễ hiểu giữa bom đạn chiến tranh ác liệt bậc nhất, chất văn chương đã thấm vào máu vẫn dồn lên đầu ngọn bút không gì cản nổi. Cũng như một số sinh viên ra trường vào mặt trận phía Nam năm ấy, nhiều người đã trở thành nhà văn và đã có những tác phẩm thành công viết tại chiến trường. Năm 1972, truyện ngắn đầu tay Kỷ niệm về một người bạn đã khởi đầu cho sự nghiệp viết văn của Nguyễn Bảo. Những tháng năm đời lính trực tiếp ngoài mặt trận, Nguyễn Bảo vừa thực thi nghĩa vụ vừa ghi chép, nhập tâm tư liệu và khi có điều kiện dẫu ngặt nghèo, đều cố gắng xây dựng tác phẩm. Ấy là các bút ký, truyện ngắn, tiểu thuyết... mà sau này hình thành nên các ấn phẩm của nhà văn. Đó là, về truyện ngắn và ký có các tập: Biển đêm (1981); Những người sẽ vào thành phố (1996); Điều bất ngờ (1999); Quà tặng; (1999, in lại 2003); Ảo ảnh; Nơi tổng thống Hoa Kỳ đi qua (2004); Người cùng sư đoàn và Phía sau người lính (2009)… Về tiểu thuyết có: Người ở thượng nguồn (1983); Giám định của đất (1989, tái bản lần 1: 1999, lần 2: 2007); Những cuộc tình đã qua (1989); Khoảng sáng không mất (1992, tái bản: 2000); Thượng Đức (2005, tái bản lần 1: 2007, lần 2: 2010) và Đỉnh máu (2013, đã tái bản).
 |
Đại tá, nhà văn Nguyễn Bảo (người đứng) phát biểu tại tọa đàm "Văn học về đề tài LLVT và chiến tranh cách mạng", tổ chức tại Nhà sáng tác Đại Lải, tháng 6-2016. Ảnh: Thủy Pi-na |
Chất lượng các tác phẩm của anh được đánh giá bằng các giải thưởng của Bộ Quốc phòng và Hội Nhà văn. Trong đó, tiểu thuyết Thượng Đức đã nhận “Cú đúp” của Hội Nhà văn Việt Nam trao năm 2000 và Bộ Quốc phòng trao giải thưởng 5 năm (2000-2005)… Đến nay, hẳn chưa có thống kê nào đầy đủ được hết những tác phẩm văn học về đề tài chiến tranh cách mạng. Bởi cuộc trường chinh giữ nước của dân tộc ta với hai kẻ thù lớn trong thế kỷ 20 kéo dài suốt ba mươi năm. Số lượng những tác phẩm “đi cùng năm tháng” về hiện thực này còn khá khiêm tốn. Dẫu vậy, theo nhận định chủ quan của tôi, khi nói đến những cây bút điển hình viết về chiến tranh cách mạng, không thể thiếu nhà văn Nguyễn Bảo. Trong đó, hai bộ tiểu thuyết sử thi dày dặn (Thượng Đức gần 700 trang và Đỉnh máu gần 500 trang) là những tác phẩm khiến người đọc bị cuốn hút từ đầu đến cuối. Nguyễn Bảo đã dồn cả tâm sức, thời gian cho những tác phẩm “dài hơi”. Đương nhiên, thành công ngoài ý tưởng còn phải gắn với chất lượng ngòi bút với những sở trường, sở đoản của nhà văn. Viết về chiến tranh phải cho ra văn chương chiến tranh, những lý tưởng, đạo lý, tình yêu… sao cho người đọc “tâm phục khẩu phục”. Có lẽ chính vì thế nên Nguyễn Bảo cần một độ chín như anh tâm sự: “Tôi tham gia Chiến dịch Thượng Đức năm 1974 mà mãi gần 40 năm sau mới bắt tay viết tiểu thuyết Thượng Đức. Những sự kiện, những con người và sự khốc liệt của các trận đánh ở đây đeo bám tôi hàng chục năm. Cho nên Đỉnh máu được coi như là một phần tiếp theo của Thượng Đức”…
Muốn có tác phẩm hay, nhà văn nhất thiết phải đối mặt với thực tiễn. Chỉ khi thực tiễn thực sự ám ảnh mới làm nên sức mạnh con chữ. Lời viết in ở đầu tập Thượng Đức của nguyên Chủ tịch nước Võ Chí Công, Đại tướng Văn Tiến Dũng và Đại tướng Hoàng Văn Thái đã nhấn mạnh tầm quan trọng của chiến dịch này. Với Nguyễn Bảo, đây như là lời nhắc nhở cần tái hiện cuộc chiến đó bằng sáng tác văn học, tri ân những người lính và nhân dân Quảng Nam đã anh dũng hy sinh làm nên chiến công bi tráng này. Trong tác phẩm, Nguyễn Bảo sử dụng rất nhiều các nguyên mẫu, trong đó có các tướng lĩnh, các vị lãnh đạo cấp cao của Trung ương, khu ủy, tỉnh, thành phố… Họ còn được nhà văn đưa vào tiểu thuyết bằng tên thật, kể cả một số nhân vật phía bên kia. Điều này không phải Nguyễn Bảo không trăn trở, lo lắng. Rất may, hai cuốn Thượng Đức và Đỉnh máu từ khi xuất bản, rồi tái bản, đến nay mọi chuyện chẳng những “xuôi chèo mát mái” mà còn được hoan nghênh và trao tặng nhiều giải thưởng lớn.
Đọc các tác phẩm của Nguyễn Bảo, ta cũng không ngỡ ngàng nhiều về bút pháp, dẫu cách viết lúc chương hồi, diễn biến sự kiện chủ yếu theo thời gian, lúc thủ pháp đồng hiện quá khứ, hiện tại đan xen nhau, được lắp ghép theo kiểu cắt dán của điện ảnh đã làm người đọc bớt đơn điệu. Ở nhà văn này, tôi cảm nhận sự tinh tế trong chi tiết và sự tươi mới trong những trang viết về tình yêu đôi lứa. Mới gặp Nguyễn Bảo, có người còn cho rằng anh thuộc “típ cũ”, thế nhưng khi cần dựng chuyện đôi lứa xảy ra trong yên hàn cũng như đạn lửa, dòng chảy cứ “xổ ra” như người trong cuộc vậy. Chi tiết cuốn hút như phim ảnh, nhưng không lạm dụng, dung tục tầm thường. Và đan xen những mô tả sự ác liệt đến lạnh người của cuộc chiến khô khốc, ta còn bắt gặp nhiều câu văn như thơ, khiến sự truyền tải tác phẩm đến người đọc hiệu quả hơn.
Nguyễn Bảo được kết nạp Đảng năm 1972 ở chiến trường. Khi đất nước thống nhất, anh được điều về công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội làm biên tập viên, rồi Trưởng ban văn xuôi; năm 1993 là Phó tổng biên tập, rồi Tổng biên tập từ năm 2006 đến 2011 về nghỉ hưu với quân hàm Đại tá. Vợ Nguyễn Bảo là chị Trần Thị Ân, người cùng xã Vĩnh Thịnh, từng nhiều năm công tác ở cơ quan Hội Nhà văn Việt Nam. Họ có hai con gái, một theo nghề bố, đang làm biên tập viên tại Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, một công tác ở tập đoàn FPT. Ba hộ của gia đình lớn này thường tụ tập vào những ngày cuối tuần ở phố Mạc Đĩnh Chi, quận Ba Đình, TP Hà Nội.
Bây giờ mọi thứ đã “an bài” nên lúc Nguyễn Bảo ở nhà viết, khi đi dự các trại sáng tác, rồi bạn bè, du lịch, về quê và còn làm bí thư chi bộ ở khu phố nữa… Địa chỉ nhà vợ chồng Nguyễn Bảo là nơi chúng tôi thường lui tới, ngoài văn chương và quen biết cả hai, họ còn rất thân tình, hiếu khách. Không hiểu sao, mỗi khi tới nhà anh, tôi cứ hình dung có nét gì đấy như đang ở trong khuôn viên trường phổ thông cấp 3 ở phố Giáng của huyện Vĩnh Lộc nửa thế kỷ trước…
ĐÀO VĨNH