Nhiều thầy giáo, cô giáo trở thành những cán bộ nghiên cứu xuất sắc của đất nước, như NGND Nguyễn Lân, NGND Nguyễn Đình Trí... Nhiều thế hệ học sinh lớn lên, trưởng thành. Có hàng trăm người con ưu tú đóng góp trọn vẹn tuổi xuân cho đất nước nở hoa độc lập, là các liệt sĩ: Chu Mai Lâm, Hoàng Minh Chính (tác giả bài thơ “Đi học” nổi tiếng), Đặng Chí Công, Ngô Duy Thư... Có nhiều anh hùng, tướng lĩnh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ như: Trung tướng Phạm Phú Thái, Thượng tướng Lê Hữu Đức... Có nhiều chính khách, nhà khoa học nổi tiếng như đồng chí Phan Diễn, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thường trực Ban Bí thư; GS, Viện sĩ Nguyễn Văn Đạo; GS, Anh hùng Lao động Nguyễn Tài Thu; GS, TS Tô Ngọc Thanh; GS, TS Nguyễn Lân Dũng... Có nhiều nhà văn, nghệ sĩ nổi tiếng: NSND Bùi Đình Hạc; nhạc sĩ Vũ Thanh; nhà thơ Phạm Tiến Duật, Ngô Văn Phú...

Cuộc đời luôn là nguồn cảm hứng lớn nhất của nghệ thuật. Có một bề dày lịch sử đáng ngợi ca như vậy, hẳn nhiên ngôi trường ấy càng tỏa sáng trong nhiều tác phẩm. Bài viết xin tiếp cận từ góc nhỏ-thơ của các tác giả từng là học sinh của trường-một ngôi trường thân thương được Cao Văn Tư, nguyên học sinh khóa 1960-1963 “vẽ” ra bằng ngôn từ thơ theo nguyên tắc “viễn cận” cổ điển: Bát ngát nương chè đồi cọ/ Trên nền đất cổ Văn Lang/ Xum xuê xà cừ phượng vĩ/ Thấp thoáng mái trường Hùng Vương-"Trường xưa". Những hình ảnh hiện lên với không gian bề xa (bát ngát), không gian chiều sâu (đất cổ) và hình ảnh gần (thấp thoáng). Giản dị mà gây ấn tượng. Đó là thành công của riêng “Trường xưa”. Với nhiều bài khác, xin được hình dung về một ngôi trường cảm xúc được nâng đỡ bởi bốn cây cột chủ đề vững chãi, mạnh mẽ mà sâu sắc, thấm thía.

Lắng sâu đạo lý "uống nước nhớ nguồn"

Môi trường học đường vốn là mảnh đất tốt nhất để cha ông ta trồng cây đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Thế nên biết ơn, nhớ ơn là những phẩm tính của bản sắc Việt. Nhà thơ lão thành Ngô Văn Phú (Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật), học khóa 1957-1958, có bài “Tuổi học trò” trẻ trung nhưng đầy ngẫm ngợi: Lạ kỳ chưa bao năm tháng trôi đi/ Lại nồng thắm hiện về nguyên vẹn cả/ Sâu đậm nhất trong những điều tôi nhớ/ Là dáng thầy giáo già mái tóc bạc phơ. Lấy điểm nhìn trữ tình từ cậu học trò thuở hoa niên để tả trường, tả thầy, tả bạn. Cả không gian, thời gian như lùi về mấy chục năm để có “điểm chạm” cái tuổi “nhất quỷ, nhì ma...”. “Lạ kỳ”, “sâu đậm” nhất là hình ảnh “thầy giáo già mái tóc bạc phơ”, vì “thầy cho em tất cả”. Bản sắc Việt là ở đó. Không có chữ “tình” trong những câu thơ nhưng người đọc lại thấy chữ tình viết hoa in đậm trong cảm xúc. Đó là nguyên tắc hàm súc, sâu lắng của thơ.

leftcenterrightdel
 Minh họa: PHÙNG MINH

Mượn hình tượng cái giếng, nhà thơ Phạm Tiến Duật (Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật) học khóa 1958-1961, tạo ra một liên tưởng “nước” ở giếng trường như là sự sống từ ngàn xưa cha ông truyền lại: "Nước là đầu tiên như tình yêu bắc cầu bao thế hệ/ Như tình thương, người ở với người/ Uống nước giếng trường/ chẳng dễ quên đâu...-"Giếng trường". Thì ra “uống nước giếng trường” cũng là “uống nước nhớ nguồn”. Tài năng thơ là phải tạo ra những trường liên tưởng hợp lý, gợi nghĩ.

Thân thương hình ảnh ngôi trường vượt lên gian khó

Nhà thơ Ngô Văn Phú nhớ lại “Tuổi học trò”: Tôi đi theo tiếng trống thuở khai trường/ Mùa thu đến trong lành đôn hậu quá/ Trường kháng chiến, thầy trò vai áo vá/ Nói những lời chất phác đến hồn nhiên/ Một chút mơ màng, một chút thần tiên... Thơ hay gợi nhiều hơn tả. Những câu thơ này gợi dẫn người đọc đi về miền quá khứ trong không gian mùa thu có âm thanh tiếng trống trường, có hình ảnh thầy trò... Hình ảnh “vai áo vá” gợi nhưng quen thuộc, vì thời ấy hầu như ai cũng vậy. Bù lại là cách dùng đúng chỗ các tính từ “đắt”: “Đôn hậu”, “chất phác”, “hồn nhiên”, “mơ màng”, “thần tiên”. Quan hệ thầy trò thời ấy là thế. Tuổi học trò thời ấy là vậy. Vất vả, gian nan nhưng nhiều mơ mộng. Và hình như ai sống ở thời ấy cũng sẽ thấy tuổi thơ mình trong trẻo, vô tư. Hình như cũng chăm hơn, say mê hơn: Những ngọn đèn bạn bầu cùng trang sách/ Thơ Nguyễn Du ngọt lịm những trang Kiều...

Nhà thơ Phạm Tiến Duật viết về hình tượng cô giáo, rất riêng: Đêm khuya khoắt chuẩn bị xong giáo án/ Em múc nước giếng gầu khua giếng cạn/ Lóng lánh trăng, thoảng tiếng em cười... Đêm khuya lắm rồi, soạn xong giáo án, cô mới ra giếng-một hình tượng đặc trưng của nghệ thuật sáng tác về trung du. Chắc nhiều người đã múc, nên giếng cạn. Múc gầu nước lên cũng là múc cả một “gầu trăng”, “lóng lánh”. Ý thơ thoát thai từ câu ca dao: Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi? Nhưng “thoảng tiếng em cười” thì rất mới. Chỉ “thoảng” thôi, tức cười nhẹ, như cố giấu, vì cười to sẽ làm người khác thức giấc... Một nét cười chỉ có trong bối cảnh ấy, nghề ấy, cô giáo ấy. Một sự ý nhị cả ở nhân vật, cả ở cách miêu tả!

Là học sinh khóa 1957-1960, nhà thơ-thầy giáo Nguyễn Thái Vận có bài “Tôi nhận điểm mình” như là một cách lý giải vì sao trường ta có nhiều nhân tài. Trước hết là nhờ các thầy cô tâm huyết, hết mình với nghề. Thầy kể việc chấm bài: Có em điểm thấp, có em điểm cao nên Chẳng thể nào trọn vẹn niềm vui/ Nếu còn một bài phải cho điểm thấp. Có tứ hay sẽ nâng cả bài thơ “bay” vào lòng người: Ở đó tấm lòng tôi thiếu hụt/ Chấm điểm em, tôi nhận điểm chính mình. Chỉ đời sống thực tế mới cho nhà thơ cái tứ lạ mà quen ấy: Khi chấm bài điểm kém, thầy như có lỗi, thầy nhận điểm kém ấy về mình. Đó là trách nhiệm cao cả. Cũng là cái vị tha cao quý. Mấy ngành nghề nào có được!

Nơi kết tinh, trao truyền, lan tỏa giá trị văn hóa

Cậu học trò Lã Ngọc Khuê xưa học khóa 1956-1959, sau này là GS, TS, mong mỏi tìm về trường cũ cũng là cách “Trở lại với chính mình” (tên bài thơ). Mượn con thuyền thơ, ngược dòng thời gian, tìm về miền thượng nguồn hoài niệm, là cách thích hợp hơn cả: Để tìm trên sân trường một sắc cỏ màu xanh/ Để lại được nghe tiếng bạn bè gọi nhau sum vầy trong nắng/ Để lại được chào thầy, chào cô ân tình sâu nặng/ Để lại nhận ra nỗi bâng khuâng như buổi mới tựu trường Không chỉ một mình tác giả mà có hàng trăm ngàn tấm lòng như thế, cũng mong mỏi tìm về nơi ấy hội tụ. Vì, theo nhà thơ Phạm Tiến Duật, ngôi trường ấy cũng giống như bao ngôi trường khác, là nơi gặp gỡ, kết tinh tinh hoa truyền thống văn hóa lịch sử: Tiếng Việt diệu kỳ em nói ở đầu môi/ Từ ruột đất mấy nghìn năm truyền lại/ Từ đáy tim mấy nghìn năm nhân loại/ Lời dạt dào đến thế để anh thương-"Giếng trường". Tiếng nói và tiếng trống khai trường sẽ vang đến mọi không gian: Dù đang ở Trường Sơn lửa đạn/ Hay theo tàu đến một đảo xa xôi. Âm thanh tiếng trống trường Hùng Vương, theo mỗi người, đem niềm tin yêu đến với mọi vùng quê mới. Đó cũng là tinh thần câu thơ của Ngô Văn Phú: Những câu thơ viết về một quê hương/ Như thể cũng rung rinh cùng tiếng trống.

Khát vọng vươn cao, vươn xa

Một thời xưa, một thời nhớ mãi: Học trò nghèo cơm độn, canh rau/ Năm bảy đứa đều mơ làm thi sĩ. Cái nghèo như vậy, cũng thường tình, nhưng cái “mơ làm thi sĩ” thì đặc biệt. Tác giả “Tuổi học trò” đã cho thấy niềm yêu văn chương thời ấy mạnh mẽ và thiêng liêng lắm. Đoàn Hải Hưng học khóa 1962-1965, về sau làm thầy giáo, nguyên Tổ trưởng Tổ Văn của trường, nói về một thế hệ sáng ngời chất lý tưởng, đầy ắp Những hoài bão và con đường phía trước/ Từ mái trường này chim cất cánh bay xa...-"Thăm thầy giáo cũ". Nguyễn Đình Ảnh, học khóa 1958-1961, khi đã thành thi sĩ có bài “Chào đất nước” nhớ về một thời trường Hùng Vương quê hương: Âm vang sau tất cả tiếng bom/ Là tiếng em ta học bài trong lớp. Hai câu thơ ngắn nhưng tái hiện cả một thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hai thái cực đối lập, hai biểu tượng âm thanh trái ngược nhau: Tiếng bom và “tiếng em ta học bài” làm bật ra ý nghĩa về sức sống mạnh mẽ, tinh thần lạc quan lớn lao. Những câu thơ như vậy góp phần làm rạng ngời một biểu tượng bản lĩnh Việt Nam: Vượt lên đạn bom là vô cùng hy vọng!

Người viết bài này quê rất xa Phú Thọ nên đồng cảm, đồng tình với câu thơ của nhà thơ Nguyễn Khôi, quê Bắc Ninh: Được làm học sinh ở trường đất Tổ/ Chắc là mình sẽ cất cánh bay cao...-"Qua trường Hùng Vương". Một ngợi ca khéo, đúng và cũng thật tinh tế!./.