THÂM TÂM, tên khai sinh Nguyễn Tuấn Trình, sinh năm 1917 tại Hải Dương. Ông xuất hiện từ Phong trào Thơ Mới, nổi tiếng với bài “Tống biệt hành”, được in trong sách giáo khoa Ngữ Văn 11 nhiều năm. Đến bài thơ này, nhiều kiện tướng Thơ Mới đã gặp cách mạng. Có Thâm Tâm trong đó. Ông góp phần làm mới thơ mới bằng giọng thơ rắn khỏe, bi phẫn, thoáng một chút giang hồ. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ông tham gia Ban biên tập Báo Tiền phong. Vào Quân đội, ông làm Thư ký tòa soạn Báo Vệ quốc quân (tiền thân của Báo QĐND). Ông hy sinh trên đường đi Chiến dịch Biên giới năm 1950.
Tống biệt hành
Đưa người, ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng...
- Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong!
*
Ta biết người buồn chiều hôm trước:
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.
HOÀNG LỘC (1920-1949), quê gốc Hải Dương, lên Hà Nội học, làm thơ từ tuổi học trò. Đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, ông là phóng viên mặt trận của Báo Xông pha, rồi Báo Bắc Sơn thuộc các quân khu. Hăm hở đi, hăm hở viết. Vừa được chuyển về Báo Vệ quốc quân thì ông hy sinh trên đường công tác, ngày 29-11-1949. Bài thơ “Viếng bạn” được tìm thấy trong bản thảo tập ký sự “Gọng kìm Đường số 4” của ông. Bài thơ bàng hoàng xót đau, còn nguyên tinh chất cảm xúc, có cảm giác tác giả viết ra là thành, chưa kịp sửa chữa gì.
Viếng bạn
Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ...
Đứa nào bắn anh đó?
Súng nào nhằm trúng anh?
Khôn thiêng xin chỉ mặt,
Gọi tên nó ra, anh!
Tên nó là đế quốc?
Tên nó là thực dân?
Nó là thằng thổ phỉ
Hay là đứa Việt gian?
Khóc anh không nước mắt,
Mà lòng đau như thắt,
Gọi anh chửa thành lời
Mà hàm răng dính chặt.
Ở đây không gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán...
Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung!
VŨ CAO, tên thật là Vũ Hữu Chỉnh (1922-2007), quê Nam Định. Hai người em ruột cũng theo nghề văn: Vũ Tú Nam, Vũ Ngọc Bình. Cả đời văn của Vũ Cao gắn với nghề báo trong Quân đội: Phóng viên Báo Vệ quốc quân, Báo QĐND rồi phát triển lên làm Tổng biên tập Tạp chí Văn Nghệ Quân đội. Bài thơ “Núi Đôi” viết ngay sau kháng chiến chống thực dân Pháp, trong một lần ông thâm nhập “vùng trắng” Núi Đôi để viết ký về một sư đoàn. Bài thơ sau đó được đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn-đã tập trung khá đầy đủ phẩm chất thơ Vũ Cao: Tình cảm sâu, chi tiết sắc, lời kể hàm súc, sáng rõ.
Núi đôi
(trích)
Bảy năm về trước, em mười bảy
Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng
Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa
Bữa thì em tới, bữa anh sang.
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi.
Em vẫn đùa anh: Sao khéo thế
Núi chồng núi vợ đứng song đôi!
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau.
Mới ngỏ lời thôi, đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó bặt tin nhau.
Anh vào bộ đội, lên Đông Bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mấy bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục núi Đôi chăng?
Anh nghĩ, quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.
Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông?
Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà, thăm núi Đôi.
Mới tới đầu ao, tin sét đánh
Giặt giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thủy chung!
Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen.
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!
ĐỖ TRUNG LAI, sinh năm 1950, ở Mỹ Đức (gần chùa Hương), Hà Nội; học vật lý ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Tốt nghiệp năm 1972, ông vào Quân đội, làm thầy giáo và... làm thơ. Khi tôi còn làm ở buổi "Tiếng Thơ", Đài Tiếng nói Việt Nam, có nhận được một chùm thơ của một tác giả lạ-Đỗ Trung Lai. Chùm thơ rất khá, chúng tôi đã dùng tất cả cho một buổi Tiếng Thơ. Khi tôi gặp được ông thì ông đã về Báo QĐND. Khi ông chuyển ngành thì lại về Đài Tiếng nói Việt Nam làm Phó tổng biên tập Báo Tiếng nói Việt Nam. Thơ Đỗ Trung Lai đằm thắm phong vị quê hương làng xóm, chan chứa tình gia đình họ mạc. Nhiều câu thơ của ông lọt vào ký ức bạn đọc, không cần đầu cuối gì, mà nhớ mãi như câu “Nhà xa, mặt trận càng xa” trong bài thơ “Đêm sông Cầu” của ông sau đó được nhạc sĩ Phan Lạc Hoa phổ nhạc cho ra đời bài hát nổi tiếng “Tình yêu trên dòng sông quan họ”.
Đêm sông Cầu
(trích)
Sông Cầu khi đầy khi vơi
Chảy ngang qua câu quan họ
Ướt đầm vạt áo bao người
Vạt thương ướt cùng vạt nhớ
Em nói nhẹ như hơi thở
Anh nghe để nhớ suốt đời:
Giữ tình yêu như giữ lửa,
Đừng quên, đừng tàn, đừng nguôi!
Tình yêu có từ phương em
Đi qua tháng năm chờ đợi
Tình yêu cũng từ phương anh
Lửa rừng bồn chồn góc núi
Tình yêu có từ hai ta
Chẳng đủ gần mà giận dỗi
Nhà xa, mặt trận càng xa
Gặp nhau lần nào cũng vội
Ngày mai chắc là nhiều nắng
Nên sao giăng khắp trên đầu
Ngày mai trấn miền ải Bắc
Tựa lưng vào đêm sông Cầu.
TRẦN ANH THÁI, sinh năm 1955, ở Thái Bình. Lính chiến đấu ở miền Trung-Tây Nguyên. Đăng thơ từ năm 1978; in tập thơ từ năm 1990. Ông được tính vào lứa nhà thơ sau đổi mới với hàng loạt trường ca. Trường ca là một hiện tượng đặc biệt của các tác giả thơ Quân đội sau chiến tranh. Nó như một thứ tổng kết, sơ kết nghĩ ngợi và cảm xúc chiến tranh của người lính. Tôi nghĩ các ông là những người có thẩm quyền nhất trong vạt đề tài này. Thành công của Trần Anh Thái còn có phần đóng góp của tư duy đổi mới. Trường ca “Đổ bóng xuống mặt trời” (năm 1999)-tác phẩm giúp ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2021, là một ví dụ.
Tiễn đưa
(Trường ca “Đổ bóng xuống mặt trời” - trích)
Tràn vào nhà
Anh tôi nhập ngũ
Mẹ ngồi vá áo
Mũi kim bật máu bàn tay.
Khách vào ra vội vã
Đám trai làng tán gẫu gốc sung
Ông hàng xóm nghe đài đọc báo
Giờ oang oang kể chuyện chiến trường.
Mẹ ngồi bóng tối
Con gà hoa mê ngủ gáy đêm
Sương muối đổ xuống ngọn cà ướt sũng
Sáng mai ra trái tím rơi đầy.
Cha mượn xe đưa anh vào đơn vị
Mẹ lặng lẽ gói áo quần anh mặc trước đây
Vải cũ bục qua bao lần vá
Mẹ giở ra gấp mãi lại nhàu.
Nhà bớt dần tiếng nói
Cha hay đi ra biển ít ngủ nhà
Cây trứng gà cha trồng bên giậu mướp
Gió khô về khát nước chết còng queo.
Cún vàng sợ bom đi trốn nơi nào
Những bức tượng tôi nặn bằng đất sét bỗng thừa ra
Hoa dong riềng chị quên không hái
Sâu róm ăn lỗ rỗ mặt chiều.
Mẹ đi nằm sớm
Gió vò võ đường xa
Sóng vỡ bờ ao
Tiếng ếch gào u mê hang tối.
Mưa như là thút dưới vực sâu
Mưa chạy về đâu
Mẹ choàng dậy ngọn đèn kỳ phụt tắt
Sáng tối ngược chiều rát mắt mẹ tôi.
Nhà thơ VŨ QUẦN PHƯƠNG