Nếu dân ca quan họ là “chất men tình tứ của xứ Kinh Bắc”, ca trù là “tiếng ngàn năm vang vọng chốn kinh kỳ” thì hò và lý Nam Bộ chính là “tiếng lòng chân chất của miền sông nước phương Nam”. Nó là âm nhạc, là lịch sử, là văn hóa, là nhân sinh quan của cả một cộng đồng. Nghiên cứu và khẳng định giá trị của hò, lý Nam Bộ vừa là nhu cầu học thuật, vừa là một cách để gìn giữ bản sắc dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Lý là thể loại dân ca phổ biến nhất ở Nam Bộ, có thể bắt gặp từ nông thôn đến thành thị, từ sinh hoạt lao động đến lễ hội. Người Nam Bộ thường nói “đi đâu cũng có lý”, đủ để thấy sự phong phú và phổ biến của nó.
    |
 |
Biểu diễn dân ca Nam Bộ tại Trung tâm Hội chợ triển lãm quốc gia, tháng 9-2025. Ảnh: LÊ HIỀN
|
Điệu lý thường ngắn gọn, súc tích, giai điệu mộc mạc, dễ nhớ, dễ hát, dễ truyền. Lời ca trong các điệu lý giàu hình ảnh, sử dụng lối ví von, so sánh quen thuộc, phản ánh đời sống hằng ngày của người dân. Những điệu lý như Lý con sáo, Lý cây bông, Lý ngựa ô, Lý trăng soi... đều mang hơi thở sông nước, ruộng đồng và những tình cảm thiết tha của con người.
Đặc trưng nổi bật của điệu lý Nam Bộ là tính chất trữ tình, mềm mại, uyển chuyển. Nó vừa có chất ru, vừa có chất kể, vừa có chất giãi bày. Người hát lý không cần giọng điêu luyện, chỉ cần chân thành là đã có thể chạm đến trái tim người nghe.
Lý Nam Bộ không chỉ là một hình thức ca hát giải trí mà còn là nơi gửi gắm tâm tư của người dân. Đằng sau những lời ca tưởng chừng giản dị, là nỗi nhớ thương quê hương, là tình yêu đôi lứa, là sự gắn bó với thiên nhiên và đất trời.
Ví dụ, “Lý con sáo” không chỉ là câu hát gọi chim sáo mà còn là nỗi niềm người con xa quê, mong một ngày trở về. “Lý cây bông” không chỉ là lời kể chuyện chợ búa mà còn là khát vọng tình duyên. Từ đó, lý Nam Bộ trở thành “ký ức tập thể” của cả một cộng đồng, là “ngôn ngữ tinh thần” để kết nối người với người.
Nếu lý gắn liền với đời sống trữ tình cá nhân thì hò lại bắt nguồn từ đời sống lao động tập thể. Người dân Nam Bộ vốn quen với cảnh sông nước mênh mông, công việc nặng nhọc như chèo thuyền, kéo gỗ, làm đồng, đắp đê... Từ nhu cầu điều phối nhịp lao động, những câu hò vang lên, nhịp nhàng, rộn rã, kéo theo cả sức người và tinh thần đoàn kết.
Đặc trưng của hò là đối đáp: Một người xướng, nhiều người họa; có nhịp điệu khoan nhặt, lúc khoan thai, lúc rộn ràng; có sự cộng hưởng, gắn bó giữa người hát và người nghe. Lời hò thường linh hoạt, ứng khẩu, vừa mang tính sáng tạo, vừa thể hiện sự thông minh, dí dỏm, hóm hỉnh của người Nam Bộ.
Hò trước hết là nhạc điệu của lao động, giúp con người hăng say, quên mệt nhọc. Nhưng đằng sau những tiếng hò lao động là tiếng hò tình cảm, tiếng hò giao duyên, tiếng hò triết lý.
Chàng trai, cô gái Nam Bộ từng làm quen, tìm hiểu, kết duyên qua những câu hò đối đáp. Những người nông dân, ngư dân gửi gắm ước vọng về mùa màng, về cuộc sống trong câu hò. Những người đi xa nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ người thương, đều gửi lòng mình vào tiếng hò. Có thể nói, hò là “diễn đàn dân chủ” của người dân, nơi ai cũng có thể cất tiếng nói, bộc bạch tâm tư, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn.
Lý và hò Nam Bộ là kết tinh của lịch sử khai phá phương Nam. Trong hành trình mở đất, con người cần tiếng hát để vượt qua gian khổ nhằm kết nối cộng đồng, khẳng định bản sắc trước thiên nhiên rộng lớn. Hò, lý ra đời và tồn tại là một sinh hoạt văn hóa, một phương thức tự khẳng định, một vũ khí tinh thần. Thế nên, chúng mang bản sắc Nam Bộ: Phóng khoáng, tự do, chân chất, hóm hỉnh, tình nghĩa. Bản sắc ấy được định hình không chỉ trong cách hát, cách đối đáp mà còn trong từng từ ngữ, hình ảnh, âm điệu.
Ngày nay, giữa xã hội hiện đại với vô vàn phương tiện giải trí, hò và lý Nam Bộ vẫn giữ được vị trí. Sức sống của hò, lý nằm ở chỗ luôn được thể hiện tại các hội diễn văn nghệ quần chúng, trong những buổi sinh hoạt cộng đồng, trong tiếng ru con, trong lời ca cải lương.
Ở Đồng Tháp, có Câu lạc bộ Hò Xự Xang được ra mắt đầu năm 2025. Câu lạc bộ này gồm hơn 20 thành viên từ nhiều ngành nghề, đam mê đờn ca tài tử, cải lương, lý, hò. Tại nhiều địa phương vùng Nam Bộ đều có các hoạt động sinh hoạt dân ca, nơi người yêu thích lý, hò có thể gặp gỡ, học hỏi. Việc ra đời các câu lạc bộ lý và hò là minh chứng cho nhu cầu của người dân trong việc có nơi để thực hành, giao lưu nghệ thuật dân gian.
Bên cạnh đó, trong những sự kiện mà các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long tổ chức thường có các tiết mục dân ca Nam Bộ, lý, hò, đờn ca tài tử được đưa vào nhằm thu hút du khách. Mặt khác, các tuyến du lịch nội vùng có chủ đề văn hóa sông nước, sản phẩm trải nghiệm làng nghề, chợ nổi, homestay, các điểm đến cộng đồng đã và đang đẩy mạnh phần văn hóa truyền thống; trong đó hò, lý là những yếu tố được sử dụng để làm sản phẩm hấp dẫn với du khách.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi âm nhạc hiện đại du nhập mạnh mẽ, việc bảo tồn và phát huy dân ca Nam Bộ, đặc biệt là hò và lý đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết.
Thực tế cho thấy, việc phát triển hò và lý Nam Bộ vẫn đang gặp phải một số vấn đề nhất định, đó là nguồn kinh phí đầu tư để phát triển chưa ổn định và còn hạn hẹp. Nghệ nhân lớn tuổi ngày càng ít và gặp nhiều hạn chế do tuổi tác, sức khỏe. Mặt khác, do thị hiếu âm nhạc trẻ ngày nay hướng nhiều sang các loại hình hiện đại, nhạc trẻ, nhạc quốc tế, khiến dân ca (hò, lý) ít được nghe thường xuyên, ít được phổ biến trong đời sống âm nhạc đại chúng.
Ngoài ra, không gian diễn xướng truyền thống bị thay đổi bằng các sân khấu lớn, hiện đại đã làm giảm ít nhiều ý nghĩa văn hóa và tính gần gũi của hò và lý. Trong hoạt động du lịch văn hóa cũng chưa khai thác hò, lý như một sản phẩm riêng biệt có thương hiệu. Hò, lý thường chỉ là phần phụ trong chương trình chứ không phải trung tâm của trải nghiệm.
Hò và lý Nam Bộ là những hạt ngọc quý trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam. Đó là tiếng lòng của người dân Nam Bộ: Phóng khoáng, hào sảng, tình nghĩa. Đó cũng là di sản chung của dân tộc, nơi kết tinh trí tuệ, tâm hồn, bản lĩnh Việt Nam trong quá trình khai phá, dựng xây và phát triển đất nước. Giữ gìn và phát huy hò, lý Nam Bộ là trách nhiệm văn hóa và với lịch sử. Bởi đó không chỉ là những khúc hát mà là linh hồn, là bản sắc, là căn cước văn hóa của người Việt trên dải đất phương Nam. Trong dòng chảy hội nhập, khi thế giới ngày càng phẳng, thì những giá trị bản địa càng trở nên quý giá. Tiếng hò, điệu lý sẽ còn vang mãi, như nhịp đập bất diệt của một nền văn hóa, như tiếng vọng ngàn đời của một dân tộc biết giữ gìn cội nguồn và khẳng định bản sắc của mình.
Để giải quyết bài toán giữ gìn và phát huy hò, lý Nam Bộ, theo tôi cần có sự kết hợp giữa Nhà nước và nhân dân, giữa nghệ nhân và nhà nghiên cứu, giữa giáo dục và truyền thông. Cần tôn vinh nghệ nhân, khuyến khích lớp trẻ học hát, sáng tạo hình thức biểu diễn mới, đồng thời vẫn giữ cốt cách truyền thống.
Trong nỗ lực bảo tồn và phát triển hò, lý Nam Bộ, tôi cho rằng, kinh phí là một yếu tố không thể xem nhẹ. Bởi lẽ, một di sản chỉ thực sự “sống” khi có môi trường diễn xướng, có nghệ nhân, có lớp kế cận và có điều kiện để tồn tại trong dòng chảy hiện đại.
Vì thế nên hò, lý Nam Bộ xứng đáng được nuôi dưỡng bằng chính sách cụ thể, bằng nguồn kinh phí ổn định để tiếp tục cất vang trong đời sống hôm nay và mai sau.
NGUYỄN PHƯƠNG