PV: Thưa ông, để giới thiệu về các loại hình văn hóa, nghệ thuật tiêu biểu của đồng bào Khmer Nam Bộ, có thể kể đến là gì?
Nhà thơ, nhà nghiên cứu Thạch Đờ Ni: Văn hóa, nghệ thuật của đồng bào Khmer Nam Bộ có hệ thống tương đối hoàn chỉnh và tiêu biểu, mang tính nghệ thuật và thẩm mĩ cao với đời sống xã hội. Trong đó, tiêu biểu là tập tục đi tu, chữ viết, văn học, âm nhạc, múa, sân khấu biểu diễn, kiến trúc, điêu khắc... Chẳng hạn, chùa Khmer mang tính đặc trưng tiêu biểu về điêu khắc với kiến trúc đồ sộ và công phu nhất. Mỗi chùa đều thiết kế như hoàng cung thu nhỏ gồm chánh điện, ngôi giảng đường, tăng xá, nhà bếp, cổng, hàng rào và các công trình phụ trợ khác được bài trí đẹp và trang trọng trong không gian tôn nghiêm, nguy nga, tráng lệ. Các họa tiết gắn liền với công trình thờ tự mang ý nghĩa sâu sắc về đời sống xã hội và giáo dục nhất định. Ví như đầu rắn Naga được thiết kế bằng số lẻ vì người Khmer quan niệm số lẻ là đại diện cho sự phát triển, tiến lên. Mỗi số lẻ của đầu Naga mang ý nghĩa riêng, như: Một đầu là một đức Phật; 3 đầu là Phật Pháp Tăng gọi là Tam Bảo hoặc Tam Cõi; 5 đầu là 5 vị đức Phật sẽ thành đạo trong quả địa cầu, nghĩa là ngũ uẩn... Chúng ta thấy hình ảnh này dưới mái hiên của chánh điện hoặc các công trình khác có hình thần Krud (xấu) và thần Kên-nor (đẹp) như thông điệp trực quan “gieo nhân ác thì hái quả xấu”. Trước cổng chùa thường có hình chằn tinh đứng canh hai bên thì quan niệm để xua đuổi tà ma ngoại đạo vào quậy phá phật tử; tuy nhiên, ẩn ý là ta bước vào chùa nên để tâm chằn bên ngoài mới phù hợp tích thiện và tu hành.
    |
 |
Nhà thơ, nhà nghiên cứu Thạch Đờ Ni. |
PV: Riêng tỉnh Sóc Trăng có Đoàn Nghệ thuật Khmer và 3 đoàn nghệ thuật quần chúng đang hoạt động thường xuyên phục vụ đồng bào trong, ngoài vùng. Có thể nói đó là thành công trong việc phát huy giá trị văn hóa dân tộc, thưa ông?
Nhà thơ, nhà nghiên cứu Thạch Đờ Ni: Rất phấn khởi khi lãnh đạo địa phương luôn quan tâm đầu tư nhiều nguồn lực để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của đồng bào như múa rô-băm, kịch hát dù kê. Rô-băm là loại hình múa cổ truyền của dân tộc Khmer, có rô-băm dân gian và rô-băm cổ truyền. Riêng rô-băm múa thiên đình và rô-băm múa có cốt truyện gọi là dù kê-một loại hình ca kịch hình thành từ đầu thế kỷ 20 ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là nghệ thuật sân khấu xuất phát trong dân gian nên hội đủ yếu tố giao thoa các dân tộc trong vùng, như: Hát bội của người Hoa, cải lương của người Việt, và tương đối hoàn thiện, thu hút đông đồng bào Khmer tham gia, thưởng thức. Thời vàng son nhất của dù kê khoảng năm 1980. Cũng cần nói thêm về rô-băm thiên đình là múa theo các nàng tiên trên trời nên gọi là múa thiên đình (múa cổ điển), thường biểu diễn tại cung đình dành cho vua chúa xem. Nên nhớ đây là múa thiên đình chứ không phải múa cung đình.
PV: Khi đất nước hội nhập sâu rộng, văn hóa không tránh nguy cơ mai một, vấn đề là chủ thể văn hóa đó đối xử với văn hóa của dân tộc mình như thế nào. Theo ông thì văn hóa Khmer đã và đang được lưu giữ ra sao?
Nhà thơ, nhà nghiên cứu Thạch Đờ Ni: Thực tế cho thấy, văn hóa Khmer ít nhiều không còn đậm chất như xưa, rõ nét nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, văn học, âm nhạc... Dễ thấy nhất là con em đồng bào Khmer hiện nay khi lên 3 tuổi đi học mẫu giáo theo chương trình chung, điều này ảnh hưởng đến tiếp cận tiếng mẹ đẻ. Một số trẻ em sau khi đi mẫu giáo về không nói tiếng Khmer do cách phát âm khó hơn và cha mẹ cũng qua loa, chỉ giao tiếp tiếng Việt với các con đến nỗi quên tiếng dân tộc. Điều đó dẫn đến tình trạng khá phổ biến là trong gia đình, cha mẹ nói tiếng Khmer nhưng con cháu nói tiếng Việt và bọn trẻ có xu hướng không thích nói tiếng dân tộc mình. Chữ viết cũng tương tự. Tuy chữ Khmer được đưa vào chương trình phổ thông và đại học nhưng thực tế thì con em đồng bào Khmer thiết tha với ngôn ngữ của mình ngày một ít đi. Có thể viết tốt nhưng đòi hỏi khả năng nghiên cứu sâu sắc về văn hóa Khmer thì hiếm. Mặt khác, chữ Khmer không mang đến việc làm có thu nhập ổn định nên họ phải tính toán tìm kế mưu sinh, phát triển kinh tế gia đình mà vô tình bỏ lại văn hóa. Trong cộng đồng Khmer vẫn còn khá nhiều người mù chữ Khmer và tiếng Khmer. Thậm chí, một số cán bộ người Khmer đảm nhiệm chức vụ cao đôi khi không biết viết, biết nói và am hiểu văn hóa của dân tộc mình.
    |
 |
Biểu diễn ca múa nhạc Khmer trong dịp lễ hội. Ảnh: LÂM TUYỀN
|
Tập tục đi tu của người Khmer cũng là một nét văn hóa rất có ý nghĩa. Những năm qua, Nhà nước có nhiều chính sách ưu đãi về bảo tồn, phát huy văn hóa, nghệ thuật các dân tộc, chùa Khmer ngày càng đẹp, khang trang hơn; tuy nhiên, số lượng con em tu học như ngày xưa lại ít đi. Ở miền Tây Nam Bộ chỉ có tỉnh Trà Vinh là duy trì khá tốt tu học, các tỉnh còn lại hình như đang trên đà tuột dốc. Tình trạng một ngôi chùa bề thế, khang trang nhưng chỉ có vài vị sư trở nên phổ biến. Tục đi tu trước khi lập gia đình của người Khmer nhằm rèn luyện cả đức lẫn tài, thu nhặt kiến thức cả đạo lẫn đời làm nghị lực sống mạnh mẽ, sẵn sàng đương đầu với gian khó. Thế nhưng, người Khmer hiện đứng trước ngã rẽ giữa đạo và đời để chọn cho mình một hướng đi. Một số gia đình chấp nhận cho con tìm tương lai, bỏ lại truyền thống; có gia đình theo truyền thống còn tương lai mặc theo số phận; lại có gia đình vừa cho con tu học đạo đồng thời cũng học văn hóa có trình độ đủ để tìm việc làm. Tuy nhiên, việc này không phải ai cũng làm được nếu không định hướng đúng để thành công và được cộng đồng người Khmer ghi nhận.
PV: Theo ông, sự giao thoa trong dòng chảy hội nhập, chúng ta cần làm cách nào để khôi phục và phát triển văn hóa của đồng bào?
Nhà thơ, nhà nghiên cứu Thạch Đờ Ni: Đây là vấn đề rất khó vì theo thời gian, văn hóa cũng chuyển biến để hòa mình phù hợp và phát triển. Nhưng theo tôi, có hai giải pháp cụ thể là môi trường và chủ thể văn hóa. Môi trường là sự tác động của xã hội và các chủ trương, chính sách của Nhà nước lên văn hóa-nghệ thuật của dân tộc Khmer. Trên cơ sở đó, vận dụng sáng tạo vào từng lĩnh vực, loại hình ở từng địa phương. Còn chủ thể văn hóa là giải pháp sống còn. Hơn ai hết, mỗi người Khmer phải xem văn hóa-nghệ thuật truyền thống là thiêng liêng nhất, là sự tồn vong của dân tộc mình. Nhà nước có thể xây trường, xây chùa nhưng không thể học thay hoặc tu thay đồng bào Khmer. Vì vậy, mỗi người Khmer phải cố gắng học hành, nghiên cứu sâu rộng về lĩnh vực văn hóa của mình, sau đó phát triển lên tầm cao mới theo thời gian và xu thế hội nhập. Ví như chữ Khmer đã vào máy tính, tại sao trang phục Khmer lại vắng trong shop thời trang? Văn hóa là sản phẩm thẩm mỹ vô cùng quý giá của dân tộc nên chủ thể phải trân trọng, giữ gìn và phát huy theo hướng tiên tiến trong xu thế hội nhập. Sản phẩm của ta mà cứ để ở nhà đóng cửa thì chẳng có khách hàng nào đến xem. Khi đất nước mở cửa sẽ có nhiều cơ hội giúp chúng ta đưa các giá trị quý để khoe, để nâng giá trị tinh thần của mỗi dân tộc. Nếu dân tộc nào mãi khoe của người khác mà quên linh hồn dân tộc mình, lâu dần sẽ bị mai một thì chẳng ai thương tiếc nữa.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
HỒ KIÊN GIANG (Thực hiện)