Nằm trong tổng thể đó, thơ ca Việt Nam giai đoạn 1945-1975 “vắt” qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, vận động và phát triển trong bối cảnh bất thường-bối cảnh chiến tranh đau thương nhưng rất đỗi hào hùng. Biển trời Tổ quốc bao la hùng vĩ được quy tụ, thẩm thấu vào hai nguồn đề tài lớn là chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, để mang lại bình đẳng, dân chủ và cơm no áo ấm cho nhân dân. Đó là trọng trách, sứ mệnh thiêng liêng mà dân tộc trao cho đội ngũ văn nghệ sĩ-những chiến sĩ trên “mặt trận văn hóa văn nghệ”, những nhà thơ với tầm vóc “đứng ngang tầm chiến lũy”…

Tuy nhiên, những ảnh hưởng từ cơ chế của một phương pháp sáng tác “độc tôn” không hề có dấu hiệu làm “xơ cứng” đề tài biển, đảo nói riêng và kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc nói chung. Ngược lại, sự mở rộng trường nhìn để hướng đến những nguồn cảm hứng lớn mang tầm dân tộc, thời đại; sự chuyển đổi tư duy thơ từ “hướng nội” sang “hướng ngoại”, sự lên ngôi của phạm trù cái cao cả, cái anh hùng, cái bình thường mà vĩ đại… đã mang đến cho mảng thơ ca này một sắc diện mới.

leftcenterrightdel
 Minh họa: ANH KHOA

Giai đoạn 1954-1964 được đánh dấu bởi Hiệp định Geneva. Cùng với sự ký kết đó, dải đất Việt Nam hình chữ S bị phân đôi làm hai nửa Bắc-Nam mà ranh giới là chiếc cầu Hiền Lương thuộc địa phận Vĩnh Linh, Quảng Trị. Không gian hiền hòa của dòng sông Bến Hải, biển Cửa Tùng, từ đó, trở thành không gian chia cắt: "Đất nước trong tôi là một khối/ Dòng sông Bến Hải chảy qua tim" (Xuân Diệu).

Thực tế đó của lịch sử đã kéo theo hiện tượng “di dân”: Một bộ phận khá lớn gốc miền Nam tập kết ra Bắc; và ngược lại, một bộ phận cư dân khác do bị lôi kéo, kích động lại “di cư” vào Nam. Đó là sự lựa chọn mang tính thời điểm với mốc thời hạn hai năm theo tinh thần Hiệp định Geneva, không ngờ lại kéo dài đến 21 năm. Đời sống văn học Việt Nam một lần nữa lại thêm dòng, mở hướng. Đây chính là khoảng thời gian (1954-1975) văn học viết về biển, đảo và duyên hải hóa thân vào hai đề tài lớn, đề tài trung tâm của thời đại cách mạng, là chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, ở thời kỳ 1954-1964, cảm xúc “hoài Nam” đã trở thành một nguồn cảm hứng tập trung, tiêu biểu mang tính chất đặc thù của dòng văn học viết về biển, đảo và duyên hải trong khoảng thời gian 10 năm này.

Trong số những người con ưu tú gốc miền Nam tập kết ra sống và làm việc trên đất Bắc, có rất nhiều nhà thơ được sinh ra trên dải đất duyên hải miền Nam. Từ Tố Hữu, Chế Lan Viên… đến Thu Bồn, Giang Nam, từ Xuân Diệu, Tế Hanh, Yến Lan… đến Thanh Hải, Hoàng Tố Nguyên v.v.. Bằng tình yêu sâu nặng với quê hương bản quán, nhóm tác giả “hành phương Bắc” này đã khơi dòng hoài niệm về quê Nam để gửi gắm những nhớ thương, khát vọng trong những ngày đất nước bị chia cắt.

Trong ký ức thơ ca cách mạng, có một miền Nam nước Việt được tính từ bờ nam sông Bến Hải kéo dài tận chót Mũi Cà Mau. Những cảnh sắc thiên nhiên, đất trời, sông biển của miền nhiệt đới Viễn Đông đã được thơ hóa, trở thành nguồn trữ tình lắng đọng và giàu sức cảm hóa. Trên dải đất dài rộng đó, mỗi nhà thơ lại có một góc cảm xúc của riêng mình, thường là mảnh đất quê hương xứ sở, nơi lưu giữ những kỷ niệm ấu thơ; những tình cảm máu mủ, ruột rà với gia đình, người thân, tình bạn, tình yêu… Một cách tương đối, có thể phân chia mảng thơ này thành từng nhóm tác giả dựa trên khoảng cách địa lý gắn với “bản gốc”: Nhóm thơ Trị-Thiên-Huế, nhóm thơ Nam Trung Bộ và nhóm thơ Nam Bộ. Gọi là tương đối, bởi vì, theo sự khảo sát của chúng tôi, trường hợp Tế Hanh với bài thơ "Nói chuyện với sông Hiền Lương" là một ngoại lệ. Tuy không sinh ra ở Vĩnh Linh, nhưng nỗi đau chia cắt đã được cất thành lời thơ bằng chính tâm sự của dòng Hiền Lương-một lát cắt nhức nhối của lịch sử-với một cái nhìn “sinh thái”: "Tôi chảy ngày đêm không nghỉ/ Hai bờ Nam-Bắc nhìn nhau/ Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị/ Tận chân trời mây núi có chia đâu" (Nói chuyện với sông Hiền Lương-Tế Hanh).

Một số nhà thơ khác như: Chế Lan Viên, Thanh Hải… cũng đã gửi gắm nhiều thương nhớ của mình về một vùng đất khắc nghiệt với “đất cát”, “gió Lào”, những  “nương ớt khô cằn” và “tre pheo gầy guộc”… lại đang phải oằn mình gánh chịu sự tàn phá, hủy diệt của chiến tranh. Khác với sự khốc liệt, cằn cỗi của mảnh đất Quảng Trị, xứ Huế trong dòng hoài niệm của các nhà thơ vẫn thiên về vẻ đẹp mộng mơ, thi vị và hữu tình như một đặc ân của thiên nhiên, tạo hóa: "Huế ơi, quê mẹ của ta ơi!/ Nhớ tự ngày xưa, tuổi chín mười/ Mây núi hiu hiu, chiều lặng lặng/ Mưa nguồn gió biển, nắng xa khơi.../ Tiếng hát đâu mà nghe nhớ thương!/ Mái nhì man mác nước sông Hương (Quê mẹ-Tố Hữu). Trong đau thương, những người con của Huế xa vẫn mang theo một “hành trang Huế” đầy sức mạnh:

Mười một năm trời mang Huế theo

Rừng cao nắng tắt bóng cheo leo

Giọng hò mái đẩy vờn mây núi

Man mác sông Hương lướt đỉnh đèo…

Nặng trĩu trăm năm bóng cổ thành

Bao lần máu đỏ, nhuộm đồng xanh

Cờ sao ngày ấy trùm cung cấm

Sông nước xôn xao núi chuyển mình

 (Nhớ Huế quê tôi-Thanh Tịnh)

 “Sông Hương”, “Núi Ngự”, “chùa Thiên Mụ”, “cầu Tràng Tiền”, “bến Văn Lâu”, “phá Tam Giang”, giọng hò “mái nhì, mái đẩy”, hàng phượng vĩ rực lửa, chói chang… thực sự là những tín hiệu văn hóa mang đậm bản sắc Huế thường trở đi trở lại với tần số cao trong sáng tác của các nhà thơ xuất thân từ cố đô. Đó vừa là những vụt hiện bừng sáng ký ức của tâm lý sáng tạo, vừa là những tồn tại mang giá trị vĩnh hằng, là tình yêu và niềm tự hào của người Huế.

Dải đất duyên hải Nam Trung Bộ tiếp nối Trị Thiên bởi đèo Hải Vân nổi tiếng cũng là một miền đất, một không gian trữ tình rộng lớn với nhiều cây bút xuất sắc, như: Xuân Diệu, Tế Hanh, Yến Lan, Khương Hữu Dụng, Lưu Trùng Dương… Đây là một miền thơ mát lành, thông thoáng với những dòng sông trong xanh, những cửa biển đẹp tựa tranh họa đồ, những rặng dừa xanh soi bóng, những cơn gió nồm nam mát rượi tâm hồn (sông Thu Bồn, cửa biển Quy Nhơn, dừa xanh Tam Quan, tháp Chàm Bình Định, Vịnh Nha Trang…). Đã từng ghi dấu ấn, từng có một làng quê “vốn làm nghề chài lưới; nước bao vây cách biển nửa ngày sông” thuở hoa niên trước 1945, sau hai năm tập kết ra miền Bắc, Tế Hanh đã tạc vào bức tranh thơ hình ảnh một dòng sông quê hương đầy ắp thương nhớ, miên man trôi giữa đôi bờ hư và thực, quá khứ và hiện tại: "Quê hương tôi có con sông xanh biếc/ Nước gương trong soi tóc những hàng tre/ Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè/ Tỏa nắng xuống dòng sông lấp loáng…/ Tôi nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng/ Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc…/ Hình ảnh con sông quê mát rượi/ Lai láng chảy, lòng tôi như suối tưới/ Quê hương ơi! Lòng tôi cũng như sông/ Tình Bắc-Nam chung chảy một dòng" (Nhớ con sông quê hương-Tế Hanh).

Là một người con có cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong, nhà thơ Xuân Diệu trong những năm tháng sống và viết tại Thủ đô Hà Nội (Nhà ta 24 Cột Cờ…) luôn kết hợp hài hòa hai điểm nhìn riêng-chung, cá nhân và Tổ quốc. Ngoài những bài thơ dành tặng miền quê ngoại Bình Định yêu dấu, ông đã mở lòng đến với nhiều địa danh khác: Từ sông Hiền Lương đến Mũi Cà Mau, từ một vườn xoài đến bà má Năm Căn… Khi viết về một nửa quê hương máu thịt của đời mình, Xuân Diệu đã dồn vào từng con chữ tình yêu sâu sắc và nỗi lòng da diết nhớ quê của một người con xa xứ:

Quê ngoại là gì, quê ngoại là ai

Mà tôi xa cách ba chục năm hoài

Bồi hồi sóng nước, bâng khuâng gió

Đầm đậm cá chuồn, thơm thơm khoai

(Miền Nam quê ngoại-Xuân Diệu)

Trong những ngày đất nước mang nỗi đau chia cắt, dải đất Nam Bộ đã là một phần nhạy cảm nhất trên thân thể Việt Nam: “Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, thịt của thịt Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi” (Chủ tịch Hồ Chí Minh). Mảnh đất cực Nam của Tổ quốc có khoảng cách địa giới xa nhất tính theo trục dọc Bắc-Nam mà Thủ đô là tâm điểm, thông qua những kết nối tâm tư, những niềm thương nỗi nhớ... đã trở nên gần gũi, mến thương. Các nhà thơ Nam Bộ, như: Lê Anh Xuân, Hoài Vũ, Hoàng Tố Nguyên… đều có chung một điệp khúc thương nhớ khi viết về quê hương. Cũng vẫn là trời mây, đất đai, cây cỏ… nhưng lại mang khí sắc, thần thái riêng của miền duyên hải Nam Bộ: "Quê tôi đó: Mặt trông ra bể/ Đốm hải đăng tắt lóe đêm đêm/ Con đê cát đỏ cỏ viền, Leng keng nhạc ngựa ngược lên chợ Gò…/ Những trưa nắng thơm mùa gặt hái/ Mái đình con… cu gáy xa xa/ Con đê nắng đổ chói lòa/ Me xanh tỏa bóng, gió hòa trong cây/ Già phanh áo, gối tay, ríu mắt/ Gái chụm đầu bói Lục Vân Tiên… (Gò Me-Hoàng Tố Nguyên).

Theo dòng xúc cảm hoài hương, những bức tranh quê in đậm sắc thái vùng miền đã hiện lên một cách chân thực, sống động. Có thể nói, nếu trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ gian khổ, cả dân tộc Việt Nam đã ngược về rừng Việt Bắc “mà nuôi chí bền”; thì sau Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và Hiệp định Geneva, cả dân tộc lại bước vào hành trình xuôi về Nam, đi qua nhiều địa danh biển, đảo, duyên hải thân thương:

Đường Cách mạng, dài theo kháng chiến

Đến hôm nay đường xuôi về biển…

... ...

Ai đi Nam-Ngãi, Bình Phú, Khánh Hòa

Ai vô Phan Rang, Phan Thiết…

Khu Năm dằng dặc khúc ruột miền Trung

Ai về với quê hương ta tha thiết

Sông Hương, Bến Hải, Cửa Tùng…

Ai vô đó, với đồng bào, đồng chí

Nói với nửa-Việt Nam yêu quý

Rằng: Nước ta là của chúng ta

(Ta đi tới-Tố Hữu)

Đó là con đường dẫn đến ngày 30-4-1975, ngày miền Nam giải phóng, non sông thu về một mối: “Xanh núi, xanh sông, xanh đồng, xanh biển” (Tố Hữu), đất nước cùng ca vang “Bài ca thống nhất” như một ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ Võ Văn Dy: “Biển trời bao la, rộn vang tiếng ca, Bắc Nam một nhà, vui một nhà …”. Khúc khải hoàn ca đó là ý chí quật cường, là xương máu của nhân dân, là những hy sinh thầm lặng của những nhớ thương, chờ đợi… Nhìn lại đồ thị vận động của thơ Việt Nam giai đoạn 1954-1975 là thêm một lần khẳng định giá trị của bộ phận thơ ca chuyển tải cảm xúc hoài niệm về miền Nam thân yêu trong những năm tháng đất nước cắt chia, “đêm Nam ngày Bắc”. Trong địa lý thơ Việt thời chống Mỹ, đây là một dòng chảy lớn hợp thành giá trị bền vững cho cả bức tranh thơ mang chủ đề đấu tranh thống nhất đất nước.

PGS, TS LÝ HOÀI THU