Đồng chí Trường Chinh viết báo, làm thơ từ những năm 20 của thế kỷ trước, khi còn là học sinh Trường Cao đẳng tiểu học ở Nam Định. Ông từng là chủ bút Báo Dân cày (1928), viết nhiều bài, in nhiều thơ trên Báo Búa liềm, Tạp chí Công hội đỏ (1929), Lao tù tạp chí, Tạp chí Cộng sản (1931-1932); chủ bút Con đường sáng và Đuốc Việt Nam (1931-1932), viết bài in thơ trên các tờ: Suối reo (1933), Lao tù (1933); chủ bút Báo Giải phóng (1936-1939), trực tiếp phụ trách Báo Tin tức (1938), viết bài và in thơ trên Báo Ngày mới (1938), Cờ Giải phóng, Tạp chí Cộng sản và cả những tờ báo tiếng Pháp như: Le Travail, Rassemblement...
Với bút danh Sóng Hồng, ông đã cho đăng hơn 200 bài thơ trên các báo bí mật có, công khai có ngay từ đầu những năm 20, 30 của thế kỷ trước, sau này được tập hợp lại thành tập Thơ, tập 1 (năm 1966), tập 2 (năm 1974) và Thơ Sóng Hồng (NXB Văn học, năm 1983)...
Thơ Sóng Hồng là “thi ngôn chí”, là sự kết hợp chặt chẽ giữa lý và tình-lý tưởng cách mạng và tâm hồn của người nghệ sĩ đúng như những lời tâm sự của ông trong lời tựa Cùng bạn đọc cho tập Thơ, in lần thứ hai (NXB Văn học, 1983) rằng: Thơ ông là tâm tư tình cảm, là kết tinh của “Niềm hy vọng của cả một dân tộc, những ước mơ của nhân dân, vẽ nên nhịp đập của trái tim quần chúng và xu thế của lịch sử loài người”. Thơ Sóng Hồng luôn gắn liền với thực tiễn cuộc sống, tham gia giải quyết những vấn đề bức thiết của cuộc sống và là vũ khí sắc bén để phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng; đồng thời cũng thật giàu xúc cảm và đậm chất nhân văn, tinh thần lạc quan tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Với nhà thơ Sóng Hồng, thơ và cách mạng không tách rời, trong đó nổi trội hơn cả là niềm say mê với lý tưởng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Niềm say mê ấy được thể hiện ngay từ những bài thơ đầu tay của ông:
Chim xuống cho ta còn mượn cánh/ Để ta bay khắp bốn phương trời… (Bài "Nhớ bạn"
-1927). Và niềm say mê lý tưởng ấy được ông nuôi dưỡng đến cả cuộc đời như một thứ men say, như một sự gắn bó máu thịt:
Đấu tranh men đã nồng say
Xa nhau mấy độ sum vầy, em ơi
Tự do hạnh phúc giống nòi
Là niềm ước nguyện suốt đời của ta
Tình thương non nước bao la
Năm châu vô sản chan hòa anh em
(Bài "Nhân ngày sinh của vợ", 12-5-1960)
Đi làm cách mạng giải phóng dân tộc, nhà thơ hiểu rõ ấy là một cuộc dấn thân. “Dấn thân vô là phải chịu tù đày/ Là gươm kề tận cổ, súng kề tai”, nhưng với đồng chí Trường Chinh-nhà thơ Sóng Hồng-thì lao tù, ngục tối luôn là trường học để trui rèn ý chí như trong bài "Tin tưởng" ông làm năm 1931, lúc cách mạng đang bị kẻ thù thực hiện “khủng bố trắng”:
Quản chi nếm mật nằm gai
Trời biển mênh mông vẫn đợi người
Chí lớn nấu nung trong ngục tối
Sẽ đem thi thố một ngày mai
Tinh thần lạc quan ấy còn được thể hiện trong nhiều bài thơ khác của Sóng Hồng thời kỳ này. Rõ nhất là bài "Lấy củi" năm 1935: Rủ nhau lấy củi sườn non/ Chim kêu vượn hót, bồn chồn ruột gan/ Đồng bào đau xót lầm than/ Mà ai nắng xế sương tan qua ngày/ Đốt cho tiêu kiếp tù đày/ Cho bừng lửa hận, biết tay anh hùng/ Có về không, có về không?/ Bước mau, mau bước non sông đợi chờ… Bài thơ là tiếng nói được cất lên từ hồn thơ của một người chiến sĩ cách mạng. Ở Nhà tù Sơn La, những năm 30 đen tối, hằng ngày ông và các tù nhân phải vào rừng lấy củi, đốt than. Công việc thật nặng nhọc và vô cùng buồn tẻ. Song, theo tác giả thì nỗi cực nhọc, buồn tẻ của cá nhân chưa phải là điều lớn nhất. Với những người tù cộng sản bấy giờ, nhất là với nhà thơ chiến sĩ Sóng Hồng thì nỗi day dứt, bồn chồn không giây phút nào nguôi ngoai là cuộc sống cơ cực của nhân dân, là tiếng gọi giải phóng non sông đất nước. Do đó, từ việc “lấy củi, đốt than” tẻ nhạt, đã cháy sáng lên một tình thương lớn, một khát vọng lớn...
Cùng với tinh thần lạc quan còn là ý chí gang thép, là khí phách ngoan cường của những người cộng sản luôn: Nhằm sẵn trong đầu ba khẩu hiệu/ Chờ khi quyết liệt thét vang trời! Để rồi “thời cơ đến”, bước sang năm 1945, tình hình trong nước và thế giới chuyển biến mau lẹ, có lợi cho thế và lực của cách mạng nước ta. Chớp thời cơ thuận lợi có một không hai ấy, Ðảng ta và Tổng bộ Mặt trận Việt Minh đã kịp thời kêu gọi toàn dân vùng dậy giành độc lập, tự do hoàn toàn cho dân tộc:
Xiềng xích chặt kỳ hết,
Gông cùm đập cho tan!
Tiêu trừ quân cướp nước.
Ðừng tha lũ Việt gian!
(Bài "Ðứng lên" - tháng 1-1945)
Thơ Sóng Hồng hầu hết là thơ chính trị, chủ yếu phục vụ công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Sóng Hồng rất thành công ở những bài thơ loại này, kể cả với bài "Là thi sĩ". Nhiều nghiên cứu mới đây cho rằng, Sóng Hồng viết bài thơ "Là thi sĩ" để bút chiến với Xuân Diệu. Đó là một nhận định khiên cưỡng, thiếu cơ sở. Bởi chính tác giả bài thơ đã từng viết: "Năm 1942, tôi hoạt động bí mật ở ngoại thành Hà Nội. Các anh chị em vận động binh lính đang tìm cách tuyên truyền một anh thư ký của nhà binh Pháp. Anh này hay làm thơ lãng mạn, than mây khóc gió, tiếc ngọc thương hoa. Một hôm, đồng chí Hoàng Văn Thụ và tôi đến cơ quan binh vận Trung ương ở quận 6 ngoại thành. Một chị binh vận đưa cho chúng tôi xem một bài thơ lãng mạn của anh thư ký nhà binh kia. Tôi bảo chị: "Anh này thích thơ, để tôi làm một bài thơ nói về nhiệm vụ của nhà thơ, rồi chị đưa cho anh ta xem, họa chăng có giúp các chị một phần nào để cảm hóa anh ta chăng". Dĩ nhiên là chị binh vận kia hoan nghênh ý kiến của tôi và giục tôi làm mau bài thơ đó. Vài hôm sau, tôi đưa cho chị bài thơ "Là thi sĩ". Chị reo lên vì sung sướng. Sau tôi được biết bài thơ đó đã có tác dụng nhất định trong công tác binh vận của Đảng và trước hết là trong việc giác ngộ anh thư ký nhà binh nói trên. Bài thơ "Là thi sĩ" đã được đăng trên báo bí mật, ký là Sóng Hồng…, sau Cách mạng Tháng Tám lại được đăng trên báo công khai ở Hà Nội" (xem Trường Chinh-Tuyển tập văn học-tập II-trang 295, 296, NXB Văn học, 1997).
Nhưng thơ Sóng Hồng không chỉ thể hiện cái ý chí, niềm tin và sự can trường. Cũng như thơ Bác Hồ, vần thơ của ông là những “vần thơ thép”, nhưng cũng thật “mênh mông bát ngát tình” như cách nói của nhà thơ Hoàng Trung Thông. Trong hoàn cảnh rất ngặt nghèo và khẩn trương của cách mạng, năm 1943, vẫn vang lên tiếng ca xuân trong trẻo, dịu dàng, thú vị của nhà thơ Sóng Hồng:
Xuân đã về
Sáng nay Xuân đã về
Gieo mầm non, hoa thắm khắp sơn khê
Và thổi gió ấm vào tâm hồn chiến sĩ
Vì nhân quần nên chiến đấu say mê!
Hỡi chiến sĩ!
Hãy tạm dừng gót giang hồ
Cho nàng Xuân phủi tuyết sương trên áo
Và dâng cả một bầu trời tạnh ráo
Rất đậm hương và tràn ngập ý thơ!
A! Tiếng cười trong như pha lê!
Sau Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến thành công, những bài thơ tình của Sóng Hồng xuất hiện nhiều hơn. Ấy là những bài thơ viết về tình yêu đôi lứa, tình anh em, bè bạn, đồng chí đồng bào mà tiêu biểu là các bài: "Đan áo", "Gửi người chị cách mạng", "Viếng mộ anh Hoàng Văn Thụ"... Trong bài "Viếng mộ anh Hoàng Văn Thụ" có câu:
Nhớ những khi ấp ủ giữa lòng dân
Chia bát cơm khoai, bẻ đôi củ sắn;
Nhớ những phen thoát vòng vây địch
Ngủ bờ ngủ bụi
vượt mọi chông gai...
Nói về thơ tình Sóng Hồng, nhiều nhà bình luận văn học cho rằng, bài "Nhân ngày sinh của vợ" nhà thơ viết năm 1960 là bài hay nhất, tiêu biểu nhất. Bài thơ cho bạn đọc biết, kể từ khi thành vợ thành chồng, thời gian ông bà được ở gần nhau rất ít. Những ngày cách mạng chưa thành công, sống trong cảnh lao tù, nhà thơ chỉ ước: Muốn băng song sắt vượt thành/ Lướt mây cưỡi gió tung hoành bốn phương. Khi ra tù, tưởng được gần vợ gần con thì lại phải tiếp tục xa nhà cùng đồng chí đồng bào tiến hành cuộc vận động cách mạng, tiến tới Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 với những nhớ nhung da diết:
Đèo cao xóm vắng đêm rằm,
Nhìn trăng anh khẽ gọi thầm: Em ơi!
Rồi ngày sum họp cũng đến. Kháng chiến thành công, hòa bình được vãn hồi, nhà thơ mặc dù bận việc nước việc dân vẫn có những phút giây thật hạnh phúc:
Bờ Hồ em bước bên anh
Ta đi trong ánh bình minh cuộc đời
Nói về thơ Sóng Hồng, bên cạnh cái “lý”, cái “tình” còn phải nói tới nghệ thuật sử dụng ngôn từ và hiệu quả của nó. Để nhanh chóng chuyển tải tư tưởng, đường lối của Đảng, chính sách của cách mạng đến với quần chúng nhân dân, ông thường sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của thơ Việt. Tuy nhiên, lục bát trong thơ Sóng Hồng là thứ lục bát không phải mềm mại du dương mà là sôi nổi, hùng hồn biểu hiện một ý chí gang thép, một tinh thần tiến công và một niềm tin mãnh liệt. Là thế nên nhiều câu, nhiều bài có sức lôi cuốn mạnh mẽ quần chúng người đọc. Là những lời hiệu triệu, thậm chí là khẩu hiệu, là “những tiếng thét vang trời”, nhưng thơ ông lại thật giàu hình ảnh và vô cùng gần gụi:
Cách thềm măng mọc lô nhô
Giáo gươm du kích trước giờ xuất quân
Tiếng kèn giục giã chiều xuân
Lệnh đâu tập hợp như gần như xa
Mưa hè, suối cuốn bên nhà
Ầm ầm binh mã xông ra chiến trường
Thu sang lá rụng đồi sương
Tiễn đưa chiến sĩ lên đường lập công
Đêm đông lần lữa bên song
Mải mê đọc sách đèn chong canh tàn
(Bài "Ở căn cứ Việt Bắc" - 1951)
Bài thơ có cái thật riêng, thật cá nhân nhưng lại toát lên cái chung, cái bao quát, cái lớn lao, Ở đây, nhà thơ đã bày tỏ cảm xúc của mình thật giản dị, thật chân thành. Trong những bài thơ làm những năm sau, Sóng Hồng ít dùng thể lục bát hơn, bớt đi nhiều ngôn từ của lối thơ cổ phong, nhưng vẫn mang tính triết lý sâu sắc, vẫn gần gụi với người đọc. Ví như bài "Đi họp" làm tại Việt Bắc mùa đông năm 1953. Bài thơ làm theo lối thơ mới giàu nhịp điệu, khỏe khoắn; là thơ tự do nhưng mỗi chữ, mỗi câu đều được lựa chọn cẩn thận nhằm giãi bày cảm xúc của mình trong một cảnh huống rất bình thường - cưỡi ngựa đi họp:
Rì rầm tiếng suối reo,
Xuống đèo trời mới tối
Vằng vặc mảnh trăng treo
Ngựa mỏi đi bước một
Người suy nghĩ vấn vương
Nhiều khi ý kiến lớn
Vụt đến lúc đi đường...
Đường xa cơn gió rít,
Xao xác chim cầm canh,
Hội nghị mai họp sớm
Băm băm ngựa bước nhanh
Thơ của Sóng Hồng là thơ giàu xúc cảm và đậm chất nhân văn, trữ tình, luôn luôn hàm chứa một tinh thần lạc quan, một niềm tin mãnh liệt vào tiền đồ tươi sáng của cách mạng và thể hiện khí phách của một người cán bộ cách mạng nhiệt huyết, kiên trung.
Đọc lại những bài thơ của một thời chưa xa ấy, thấy rõ một tâm hồn nghệ sĩ-nhà thơ Sóng Hồng trong con người chiến sĩ-đồng chí Trường Chinh! Là một nhà thơ đồng thời là một nhà văn hóa lớn, Sóng Hồng đã đồng cảm sâu sắc với các nhà thơ lớn của dân tộc ta như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… Được biết, Sóng Hồng là nhà thơ rất tâm đắc và kính phục ý chí cũng như tài thơ của Cao Bá Quát. Ông đã bỏ nhiều công phu để dịch một số bài thơ của Chu Thần...
Đọc lại hơn 200 bài thơ của Sóng Hồng vào dịp kỷ niệm 110 năm ngày sinh của ông, chúng ta như được thấy lại một thời từ nô lệ đau thương và “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” của dân tộc. Người đọc cũng gặp lại một điệu đàn, một phong cách thơ riêng khác, có một vị trí, một chỗ đứng nhất định trong nền thơ Việt Nam hiện đại, mặc dù thơ chỉ chiếm một vị trí rất nhỏ trong cuộc đời và sự nghiệp của ông. Đọc lại thơ Sóng Hồng, người đọc hôm nay cũng gặp một tâm hồn thơ đôn hậu cùng ý chí, cùng tấm lòng của một người cộng sản.
NGÔ VĨNH BÌNH