Thực tế, tác giả Lê Tiến Vượng đã có 4 tập thơ dày dặn, chững chạc, tập nào cũng gần trăm bài thơ, bài nào cũng để lại cảm xúc trong lòng bạn đọc. Và tôi đang có trên tay tập thơ thứ tư-mới nhất, được tác giả tặng, có nhan đề “Lục bát phố” do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành cuối năm 2018 vừa qua. Trân trọng, nâng niu, thử mở vô tình một trang, mắt bỗng chạm phải những lời bộc bạch tưởng đùa mà “rất có chuyện”:

            Thơ mình tặng bạn đọc chơi

      Mượn câu lục bát mà ngồi ngắm nhau

            Đòn đời không đánh mà đau

      Đòn tình chưa tỏ, mái đầu đã phai.

                                                       (“Thơ mình”)

Vâng, từ “chơi” và “ngắm nhau” là tếu táo. Tếu táo để lấy cớ bộc bạch nỗi niềm về “đòn đời” và “đòn tình”. Nó ở đâu? Thì hẳn là ở phố. Thơ Lê Tiến Vượng bộc bạch là thế (giống như con người anh-quang minh, ngay thẳng, chan hòa và chia sẻ), bộc bạch từ tên tập thơ, tên các bài thơ đến từng câu thơ. Với tôi và nhiều người, chỉ cần nhìn tên tập thơ, đọc đầu đề bài thơ đã hình dung được vấn đề anh định nói. Điều quan trọng là vấn đề ấy có động lòng trắc ẩn, khơi dậy “tính bản thiện” trong tâm thức con người ta hay không. Xin thưa, điều đó hoàn toàn có trong thơ Lê Tiến Vượng.

leftcenterrightdel
Lê Tiến Vượng và tập thơ “Lục bát phố”. Ảnh: LÊ VĂN

Đúng vậy, với 71 bài thơ trong tập “Lục bát phố”, ta gặp đủ thứ chuyện, đủ thứ người, đủ thứ cảnh… toàn những thứ diễn ra trước mắt hằng ngày, ai cũng thấy nhưng chỉ riêng Lê Tiến Vượng nói ra tưng tửng. Vì thế, “Lục bát phố” là bức tranh hiện thực đời sống thời hiện đại hóa được phô bày qua hình tượng con người và những cảnh đời xã hội thật sinh động.

Con người: Họ có thể là những cô gái làng nhẹ dạ cả tin, mơ lên phố để thoát kiếp nghèo; là cô gái lấy chồng ngoại quốc tưởng đổi được đời mà không; là những ông thợ sửa xe, bà hàng nước, anh thợ khóa, chị bán hàng rong, em đánh giày; là anh tài xế tắc xi ngầu đời, anh xe ôm bán sức… phần lớn họ xuất phát từ nhà quê chân chất. Ra phố, người thì chầy chật, lam lũ kiếm sống; kẻ thì lên chức lên quyền lắm tiền nhiều của. Người thì quá tỉnh táo để yêu, để lừa, để “chạy”; kẻ thì điên dại ngẩn ngơ đến vô cảm cả với thân phận mình… Mỗi con người ấy là một phận người đại diện cho bao phận người ở mỗi tầng lớp xã hội hiện đại hôm nay. Họ bước vào thơ Lê Tiến Vượng thi vị hơn nhưng cũng đáng thương hơn bởi cái nhìn cảm thông và sự phát hiện tinh tế của anh:

            Phố phường chen chúc người quê

      Miếng cơm, manh áo, dãi dề tấm thân

            Trẻ già, trai gái phong trần

      Bán đi cái có để cần… cái không

                                          (“Phố phường”)

            Sửa xe nửa cúi, nửa bò

      Bặm môi, vẹo má, tiếng ho rát chiều

            Bạn bà hàng nước, bún riêu

      Vui ông thợ khóa, lêu têu đánh giày

                                            (“Thợ sửa xe”)

            Vô tư cái lúm đồng tiền

      Em như cô Tấm thảo hiền sang sông

            Phố giờ lại lắm Lý Thông

      Bao nhiêu em gái không chồng… sinh con

                                                (“Lại lo”)

            Tinh sương gánh gánh gồng gồng

      Từng đoàn thôn nữ xa chồng… bán mua

            Phong phanh giữa chốn lọc lừa

      Áo quần còn ngái bùn chua hôm nào

                                                (“Gánh gồng”)

Phải gần gũi, quan sát họ, phải hóa thân vào thân phận họ, có khi mình cũng chính là họ, Lê Tiến Vượng mới lột tả chân thực được những con người ấy. Nhưng nỗi đáng thương phải đâu chỉ có ở người nghèo hèn? Có cả “nhân tình thế thái” của cán bộ về hưu:

            Về hưu giống hệt ông từ

      Lại mơ “quyền trượng” ông sư thuở nào

            Bao năm lốt hổ gầm gào

      Lắm đêm tỉnh giấc… thì thào meo meo

                                          (“Về hưu”)

Nỗi đáng thương về bao phận người nếu viết bằng ngôn ngữ nghiêm túc có khi thành than vãn. Nhưng tài làm sao, ngôn ngữ của Lê Tiến Vượng lại hài hước, hóm hỉnh. Ngôn ngữ thơ anh là ngôn ngữ tiếng cười. Người đọc cảm giác như chính anh đang “tự trào” tình cảnh của mình chứ không phải tình cảnh của ai khác. Nhưng đó lại là “ai khác”. Thế mới ngậm ngùi xót xa tận thẳm sâu trong đáy ngực chúng ta.

Con người đã vậy, những cảnh đời của họ mới làm nên bức tranh xã hội thời hiện đại với ba chiều không gian nhốn nháo, “lộn tùng phèo” mọi giá trị đích thực.

Đó là “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” về một Hà Nội ồn ào, chen lấn, ô nhiễm, rác rưởi, tắc đường và cả lưu manh, giả dối…  như mặt sau tấm hình về một Tràng An thanh lịch đáng tự hào. Trông rộng nhìn xa hơn thì đó là vết ố phố phường cần được rửa sạch. Nó như một cái “chợ khổng lồ”, là nơi giằng giật kiếm kế sinh nhai chứ không phải nơi an cư sinh sống. Vì thế, vỉa hè tranh giành, cửa hàng tranh bán, con người tranh nhau với Bao nhiêu cái cảnh… cò cưa… qua ngày (“Phố phường”) thật xô bồ. Còn những gì ẩn sâu trong cái xô bồ ấy, phải nhờ con mắt xanh của nhà thơ phát hiện tinh tế ta mới nhận ra.

Ấy là những thật giả lẫn lộn: Cái tình tưởng ngọt lại cay/ Tưởng mê thành đắm, tưởng ngày hóa đêm (“Cái thời”). Còn cái giả dối lại hiện hữu: Phố phường lắm quỷ nhiều ma/ Lý Thông mặc áo cà sa sao nhiều (“Em tôi”). Chỉ một bài “Đi chợ” là chân dung cái ác hiện ra tất cả: Hoa quả ngâm tẩm thuốc Tàu/ Con tôm thì độc, con hàu thì tanh… Người ta đầu độc khắp nơi/ Phố, quê đâu cũng đãi bôi vì tiền/ Cái thời mâm bát đảo điên/ Ăn xong chẳng biết “quy tiên” lúc nào. Cảm ơn Lê Tiến Vượng đã cảnh tỉnh bằng thơ về sự giả dối, độc ác đó đây nơi phố phường nhưng cũng khiến ta giật mình bởi nghe anh nói: Bây giờ chẳng biết tin gì/ Lương tâm thì bé, phong bì thì to (“Đi chợ”); Đi đâu cũng gặp con buôn/ Người chui người cúi, kẻ luồn mà đau (“Ngẫm”). Ấy là đồng tiền đã lên ngôi, tha hóa người ta. Vì tiền mà đảo điên tất cả: Trên thì dối, dưới thì gian. Vì tiền mà đầy rẫy những tệ nạn. Nào là nạn “chạy” chức “chạy” quyền, “chạy” bằng cấp, “chạy” khen thưởng, “chạy” trường, “chạy” án, “chạy” dự án, “chạy” về hưu, “chạy” sổ đỏ, “chạy” thuốc thang chữa bệnh… Nào là nạn tham ô, tham nhũng cửa quyền của các quan chức. Nào là nạn đỏ đen trong sòng đời, nạn đua chen hình thức, lãng phí trong trường học, nạn đua nhau lấy chồng nước ngoài để đổi đời… Còn có nạn “buôn thần bán thánh” kiếm tiền là nạn mới, dối lừa và phất lên nhất: Vào chùa đóng oản giàu kinh cả hồn/ Cái thời sư sãi đi buôn/ Bán thần, buôn thánh nỗi buồn ai thương (“Ngẫm 2”). Tất cả những cảnh đời khiến người đọc phải lắc đầu chép miệng ấy có thể quy tụ trong bài thơ “Chợ trời” của Lê Tiến Vượng. Trong bài thơ này, mọi cái rất cụ thể và hiện thực nhưng hình tượng lại rất khái quát. Nó là bức tranh tổng thể của phố phường, xã hội và con người thời quá độ nhốn nháo: Tiến lên hiện đại hóa nhưng ý thức con người không chịu lên theo mà lợi dụng thời thế để lưu manh kiếm lời:

            Chợ trời đủ thứ… ê hề

      Đồ gian, đồ dởm, đồ nghề… bán mua

            Người ngay thì bán đồ thừa

      Người gian bán cái lọc lừa… thế thôi

                                                (“Chợ trời”)

Những bài thơ lột tả hiện thực trong “Lục bát phố” khá nhiều, nếu không viết khéo sẽ thành thơ châm biếm, đả kích. Nhưng Lê Tiến Vượng lại rất khéo và tài. Thơ anh viết với giọng điệu trữ tình, ngôn ngữ gần gụi, hóm hỉnh, câu lục bát như một tiếng thở dài trăn trở nên người đọc không bực tức hay phẫn nộ mà chỉ xót xa, thương cảm. Hơn thế nữa, thơ Lê Tiến Vượng còn rút ra những trải nghiệm, tổng kết về đời sống hôm nay khá thú vị. Ví như:

            Tình yêu chẳng cũ em à

      Vàng thì nhiều tuổi, gừng già càng cay

            … Đời nay có tí tẹo thôi

      Tình trong một khắc cũng hời trăm năm

                                                (“Ừ thì…”)

            Cái thời muốn nói lại câm

      Muốn đi phải đứng, muốn cầm sợ rơi

                                                (“Nửa đời”)

            Em ơi sân khấu thì tròn

      Cuộc đời thì méo, lại còn lắm gai

                                                (“Cái thời”)

“Lục bát phố” còn đề cập nhiều vấn đề phong phú khác như tình yêu, tình vợ chồng, tình ông bà, con cháu và cả “chuyện mình” đều được viết với giọng hóm hỉnh mà chân thực. Ai đọc cũng thấy mình trong đó. Riêng về bản thân, tác giả có những bài, những câu tự trào mà rất có duyên.

Nhìn chung, “Lục bát phố” đều là những bài thơ chuẩn vần, chuẩn thanh, nhuần nhị. Lời lẽ như tuột ra tự nhiên trong nỗi lòng. Ngôn từ dí dỏm, sâu sắc, nhiều câu tưởng hài mà người đọc cười cay mắt. Hình ảnh thơ sống động như hiện thực vẽ ra trước mắt gây được ấn tượng. Tuy nhiên, nhiều bài còn dài, nhiều câu bi quan, bế tắc. Đó phải chăng là tâm trạng riêng của tác giả hay tâm trạng chung của những người đã trải nghiệm qua hai thế kỷ, giờ đang buồn, đang lo lắng, đang rất có trách nhiệm với cuộc sống hôm nay?

Dù sao thì tập thơ vẫn là những nỗi niềm, nỗi đời tác giả gửi đến bạn đọc để cùng chia sẻ bằng những câu lục bát tài hoa của mình. Hãy có trên tay tập “Lục bát phố”, chắc chắn bạn sẽ thấy thú vị và còn phát hiện ra nhiều điều tôi chưa nói hết ở đây.

Nhà thơ NGUYỄN THỊ MAI

(Nhân đọc tập thơ “Lục bát phố” của tác giả Lê Tiến Vượng - NXB Hội Nhà văn, 2018)