Đây là bài thơ gọi hồn liệt sĩ. Ở đây còn có bài thơ “Lời thỉnh cầu ở nghĩa trang Đồng Lộc” của nhà thơ Vương Trọng và bức thư của chị Võ Thị Tần viết cho mẹ trước khi hy sinh được khắc lên bia đá. Còn bài thơ “Cúc ơi!” đã khắc trong tâm trí của bao người. Tôi được nghe chị Yến, nguyên Phó trưởng ban Quản lý Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc, người có nhiều công lao sưu tầm các hiện vật của 10 cô (trong đó có tấm áo của Hồ Thị Cúc) kể rằng: Cứ sắp đến ngày giỗ các cô thì hồ nước gần đó nở đúng 10 bông hoa súng rực rỡ sắc đỏ đẹp đến ngỡ ngàng. Đồi Trọ Voi, nơi năm xưa anh hùng La Thị Tám lập đài quan sát đếm bom nổ chậm cũng còn sót lại đúng 10 cây bạch đàn xanh.
    |
 |
Bản thảo viết tay bài thơ “ Cúc ơi!” của Yến Thanh. Ảnh do nhân vật cung cấp. |
Tình cờ tôi gặp nhà thơ Yến Thanh tại nhà ông Nguyễn Thế Linh, nguyên Đại đội trưởng Đại đội 552 của 10 cô gái TNXP, mới biết họ từng là bạn bè, đồng đội trong những ngày chiến tranh ác liệt ở Ngã ba Đồng Lộc. Và Yến Thanh cũng là bạn đồng nghiệp với tôi, ông có nhiều bài thơ hay và là hội viên Hội Văn nghệ Hà Tĩnh.
Yến Thanh tên thật là Nguyễn Thanh Bính, bút danh Yến Thanh là ông lấy tên lót của ông ghép với tên một cô gái TNXP là Yến có giọng hát khá hay ở cùng tổng đội TNXP. Yến Thanh tốt nghiệp Trường Trung cấp Thủy bộ Hà Nội, năm 1965 được Ty Giao thông vận tải tỉnh Hà Tĩnh biệt phái sang làm cán bộ kỹ thuật cho tổng đội TNXP ở Ngã ba Đồng Lộc. Ông là người hay sáng tác các màn hoạt cảnh dân ca cho đội văn nghệ và khi ra mặt đường thì ứng khẩu những câu hò đối đáp giữa nam và nữ.
Chữ ông đẹp, vì thế các cô TNXP thường nhờ viết chữ lên gối để họ thêu tặng người yêu. Các cặp chữ họ hay yêu cầu là “Hạnh phúc” hoặc chữ cái đầu tiên tên của hai người lồng vào nhau bền chặt và đầy lãng mạn. Yến Thanh kể: Sau khi quả bom vùi lấp 10 cô TNXP lúc 16 giờ ngày 24-7-1968 thì lực lượng bới tìm được 9 cô cùng chung một căn hầm. Riêng o (cô) Cúc nhận đào một cái hố tròn cách đó không xa để dành cho A trưởng Võ Thị Tần chỉ huy. Ở đó đất đồi đá cứng khó đào nhưng Cúc bao giờ cũng nhận việc khó khăn về mình. Tuổi ấu thơ của Cúc khá vất vả, bươn chải tự lực từ khi còn nhỏ vì bố mất sớm, mẹ đi lấy chồng. Chiều 25-7-1968, khi Ty Giao thông vận tải điện cho Anh hùng Uông Xuân Lý đem máy ủi ra đào để tìm Cúc thì Chi bộ Đại đội 552 họp đột xuất ra nghị quyết: Tiếp tục đào bới bằng tay cho đến khi tìm được thi thể của Hồ Thị Cúc. Vì thế mà Yến Thanh trong bài thơ “Cúc ơi!” có câu: Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc/ Đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần/ Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng.
    |
 |
Nhà thơ Yến Thanh đọc bài báo viết về 10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc và bài thơ "Cúc ơi!". Ảnh do nhân vật cung cấp |
Yến Thanh kể xuất xứ ra đời bài thơ: Khi đó ông ngồi một mình nhìn ra ngoài vườn, dưới những tán lá cọ nơi kê chiếc quan tài thứ 10 chờ thi thể Hồ Thị Cúc. Cảm xúc dâng trào trong lòng khi Yến Thanh hình dung lại hình ảnh o Cúc thường ngày ông gặp: Tóc loe xoe vàng xoăn tít như đuôi bò, mặt luôn tư lự buồn buồn nhìn sấp, vì thế mà o Cúc có biệt danh là Cúc “mục”.
Thế là mạch thơ ùa ra, ông viết chỉ trong hai tiếng đồng hồ không cầm nổi nước mắt. Ông viết với giọng điệu tự sự mộc mạc chân tình như một sự trải lòng dồn nén và cuối cùng là tiếng nấc: "Cúc ơi!", như tiếng gọi hồn người đồng đội đã mất. Lần đầu ông đặt tên bài thơ là “Hồn trinh nữ ở đâu” rồi lại xóa bởi nghe mang máng như chất giọng của nhà thơ Nguyễn Bính khóc cô hàng xóm.
Sáng ngày 26-7-1968, ông và Bí thư Chi bộ C552 ra hiện trường, cạnh hố bom có một bàn thờ dã chiến khói hương nghi ngút. Ông thành kính thắp hương và rút bản thảo bài thơ “Cúc ơi!” đọc thầm như một nén tâm nhang trước linh hồn của Hồ Thị Cúc. Đọc xong, ông hóa bài thơ bùng cháy cạnh hố bom thì khoảng 10 giờ trưa đồng đội đã tìm được o Cúc ở cái hầm tròn. Đầu o còn đội cái nón bẹp dí, vai dựa vào cán cuốc. Thi thể o còn nguyên vẹn nhưng tím bầm, hai bàn tay đầy máu khô. Có lẽ trong tuyệt vọng, o Cúc đã đào bới nhưng vô vọng...
Cúc ơi!
YẾN THANH
Tiểu đội đã về xếp một hàng ngang
Cúc ơi! Em ở đâu không về tập hợp?
Chín bạn đã quây quần đủ mặt:
Nhỏ-Xuân-Hà-Hường-Hợi-Rạng-Xuân-Xanh.
A trưởng Võ Thị Tần điểm danh
Chỉ thiếu mình em
(Chín bỏ làm mười răng được!)
Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc
Đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần
Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng.
Cúc ơi! Em ở đâu?
Đất nâu lạnh lắm
Da em thì xanh
Áo em thì mỏng!
Cúc ơi! Em ở đâu?
Về với bọn anh tắm nước trong Ngàn Phố
Ăn quýt đỏ Sơn Bằng
Chăn trâu cắt cỏ
Bài toán lớp 5 em còn chưa nhớ
Gối còn thêu dở
Cơm chiều chưa ăn
Em ở đâu hỡi Cúc
Đồng đội tìm em:
Đũa găm, cơm úp
Gọi em
Gào em
Khản cổ cả rồi
Cúc ơi ... ời ... ơi!
|
Tôi hỏi Yến Thanh: Bài thơ đó có lẽ là bài thơ sớm nhất viết về sự hy sinh của 10 cô TNXP ở Ngã ba Đồng Lộc. Vậy nó được công bố lúc nào? Yến Thanh nói: Số phận bài thơ cũng khá long đong như đời của Cúc vậy. Tình cờ có nhà thơ quân đội Phạm Ngọc Cảnh cùng quê Hà Tĩnh đi qua Ngã ba Đồng Lộc, Yến Thanh chép bài thơ “Cúc ơi!” gửi ra Hà Nội. Không ngờ hai tháng sau, Đài Tiếng nói Việt Nam trong chuyên mục “Tiếng thơ” đã ngâm bài thơ “Cúc ơi!” qua giọng trầm ấm xúc động của nghệ sĩ Văn Thành. Nhưng phải chờ đến năm 1991, bài thơ mới được lần đầu in báo. Yến Thanh bỗng trầm ngâm nhớ lại, hai mắt ông đỏ hoe: Buổi trưa tìm được thi thể của Hồ Thị Cúc, trời tháng 7 ở Đồng Lộc rất nóng, gió Lào thổi khô rang, vì thế thi thể phình to ra không bỏ lọt quan tài. Một tình huống thật khó khăn đặt ra tưởng như bó tay vì không có một cỗ quan tài đặc biệt nào có chiều rộng như thế. May thay ở trong xóm có một ông cụ rất có kinh nghiệm trong việc mai táng người chết. Cụ lấy hai chiếc đũa bếp (loại đũa để dùng xới cơm) bế thi thể o Cúc đặt lên mặt quan tài. Mình cụ vừa khấn nguyện rì rầm, vừa khéo léo dùng hai chiếc “đũa thần” ấy ấn dần và thật ngạc nhiên, thi thể o Cúc đã vừa vặn trong cỗ quan tài mà không cần phải nắn gãy xương tay chân như một phương án ban đầu đưa ra.
Bài thơ “Cúc ơi!” không kể về chiến công gan dạ anh hùng của người đã khuất mà chỉ nhắc đến kỷ niệm quê hương như một lời tâm tình thủ thỉ và đặc biệt là lời khẩn thiết điệp khúc: “Cúc ơi! Em ở đâu?” và “Em ở đâu hỡi Cúc!” cùng tiếng gọi hồn người đã khuất: “Cúc ơi.. ời .. ơi” vẫn như còn vọng lại lay thức đến mãi hôn nay làm xúc động biết bao lòng người.
Hà Tĩnh, ngày 14 tháng 7 năm 2021
Nhà thơ NGUYỄN NGỌC PHÚ