Bể rộng, sông dài, sương khói
Quê xa ngăn ngắt xanh trời...
Ta mãi chỉ là con trẻ
Hút tầm theo cánh chim bay
Mùa thu gió thổi héo trời
Đau đáu một phương thương nhớ...
Ầu ơ! Muối mặn gừng cay
Biền biệt năm dài cát bụi
Ta đi dan díu thị thành
Đắm đuối lời ru theo mãi...
Núi cội, sông nguồn, bến đợi
Ai về cho ta theo cùng
Năm canh mẹ ngồi thức đủ
Lời ru trong vắt nỗi buồn...
Ở làng Ba Đình
Còn đây mái đình ngói cổ
Bờ tre xanh mướt tiếng chim
Nhớ ngày cha ông tụ nghĩa
Cờ đào sáng ngọn đa già
Vượt đất, khơi sông, dựng lũy
Chọi cùng đại bác, tàu đồng
Hạt gạo cháy chìm vào nước
Áo nâu lấm láp bùn son
Trống trận bền gan nghĩa sĩ
Máu người thấm đỏ đất đai
Trăm năm nở sinh mùa gặt
Lúa vàng chín tận chân mây
Rơm rạ bao đời vất vả
Vẹn nguyên tiếng trẻ trong lành
Hòn đất, cánh bèo, ngọn cỏ
Làng xưa mây trắng Ba Đình (*)
(*) Nơi Đinh Công Tráng dấy binh khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở Thanh Hóa cuối thế kỷ 19
Hăm mốt Lê Lai...
Vẫn cơn mưa sùi sụt đất trời
Tôi về Lam Kinh thềm đài, ngựa đá
Cờ trận, gươm khua một thuở
Dấu voi ngựa quỳ, vạt cỏ lạnh màu mưa...
Trong làn mưa lời dân dã kể thêm:
Ngày khải hoàn ca, hoàng bào đẫm lệ
Nhớ bao người chưa vinh hiển lầu son...
Chẳng câu nệ, vua dặn cháu con:
“Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi...”
Trên mọi vương quyền là dân tộc
Trên mọi đài bia là câu hát
“Hăm mốt Lê Lai...”
Sáu trăm năm nhân nghĩa vẫn đong đầy...
Giữa cánh đồng
Nhà tôi giữa cánh đồng
Luống cày sóng vỗ
Tiếng gọi bò thắp lửa bình minh
Người gieo trồng như mầm xanh
In trên nền trời tươi tốt!
Thế kỷ hai mươi máu đỏ chân trời
Cánh đồng bời bời bom đạn
Rơm rạ một đời tay cày tay súng
Hạt thóc trên tay nặng như
phận người...
Thế kỷ 21 còn nhiều bất trắc
Nhấp nháy màn hình thế-giới-phẳng”
Cánh đồng bán mua như phố chợ
Khắc khổ nét mặt cha!
Nhà tôi giữa cánh đồng
Em và tôi như hạt thóc mẩy vàng
Chín cùng mùa thu đắm đuối
Em làm hạt mưa sa về phía thị thành
Còn nhớ câu hò lấm lem bùn đất?
NGUYỄN NGỌC QUẾ