Vẫn tên nhân vật cũ nhưng được nhìn bằng góc độ mới, nhân vật được bổ sung những sức sống, quan niệm, ý nghĩa mới. Từ lý thuyết “liên văn bản” chắc sẽ khám phá ra nhiều mối liên hệ thú vị.
Ai cũng thuộc hai câu ca dao tóm tắt thật cô đọng, khái quát mà nói lên được cả nhân vật, tình thế, hình thức truyện: “Ngày xưa có anh Trương Chi/ Người thì thậm xấu, hát thì thậm hay...”. “Thậm” có nghĩa là rất, là đầu mút của cực. Ở đây là đầu mút của hai cực đối lập: Quá xấu và quá hay. Dân gian đã gửi vào đấy triết lý về bi kịch: Quá xấu về hình thức/ quá hay về nội dung. Quá nghèo về vật chất/ quá giàu về tinh thần. Quá si mê/ quá thất vọng... Dùng cái “quá” để triết lý về cái “vừa độ”, vừa đủ, vừa phải, “một vừa hai phải”... Tính cách Việt ưa cái vừa phải. Các câu cửa miệng người Việt hay nói: “Thái quá bất cập”, “già néo đứt dây”, “quá mù ra mưa”... khuyên răn người ta làm việc gì, nói gì cũng vừa đủ, chừng mực.
Ca dao nói Trương Chi “hát” nhưng nhiều dị bản truyện kể thì Trương Chi thổi sáo. Tưởng là “chênh” nhưng đặt trong chủ đề mới thấy cái lý: Hát hay thổi sáo cũng là nghệ thuật. Điều này càng cho thấy rõ hơn chủ đề của truyện là nói về bi kịch của nghệ thuật.
Cùng cảm hứng về Trương Chi nhưng nhạc phẩm của Văn Cao thành công nhất, day dứt, đau khổ nhưng đẹp, cái đẹp não nùng mà không não nề: Tây hiên Mỵ Nương khi nghe tiếng ngân/ Hò khoan mơ bóng con đò trôi/ Giai nhân cười nép trăng sáng lả lơi, lả lơi bên trời/ Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung/ Anh thương nhớ/ Oán trách cuộc từ ly não nùng/ Đò trăng cắm giữa sông vắng/ Gió đưa câu ca về đâu/ Nhìn xuống đáy nước sông sâu/ Thuyền anh đã chìm đâu!...
Truyện kể Mỵ Nương là một cô gái xinh đẹp, con một vị quan đại thần. Sống trong nhung lụa nhưng là cảnh cấm cung như bị tù đày. Người cha thương con bèn xây riêng cho nàng một ngôi lầu nhỏ bên bờ sông để nàng ngắm cảnh. Một hôm, nàng nghe văng vẳng tiếng sáo như xa như gần, chập chờn, mê hoặc. Khi bổng khi trầm, tiếng sáo véo von, thiết tha, réo rắt, mời gọi. Đó là tiếng sáo của Trương Chi-chàng trai làm nghề đánh cá. Oái oăm thay, chàng lại có vẻ ngoài cực kỳ xấu xí, xấu đến mức không ai dám chơi, không ai dám nhìn. Hình như thế mà tiếng sáo của chàng càng hay, thổn thức như tâm tình, như giãi bày, như than thở. Tiếng sáo hay là tiếng lòng của người khát khao được trao gửi, giãi bày, chia sẻ... Quá say mê tiếng sáo, muốn gặp người thổi sáo mà không được, vì là gái cấm cung, dần dần Mỵ Nương sinh bệnh. Người nhà tìm đủ mọi phương thuốc nhưng bệnh tình của nàng ngày một nặng thêm. Về sau có vị lang gần đó mách cha nàng nguyên do, cách chữa...
Là người cực kỳ khắt khe, bảo thủ nhưng thương con mà cha nàng phá lệ, lệnh cho mời Trương Chi đến gặp. Theo thói quen, chàng thổi sáo. Tiếng sáo càng lại gần, Mỵ Nương sững sờ, thảng thốt, cồn cào như ngây như dại. Nàng muốn gặp “tri âm”...
Nàng sắp được gặp nghệ sĩ của lòng mình!
Nhưng trái ngang thay ông trời! Thấy Trương Chi quá xấu, nàng bủn rủn, thất vọng khủng khiếp đến mức ngất đi. Tỉnh dậy thì tự nhiên khỏi bệnh!
Còn Trương Chi được gặp Mỵ Nương đẹp như người trời, lại trong cảnh phong gấm rủ là... thì cây sáo rơi xuống. Chàng quay cuồng, choáng váng vì lưỡi búa phũ phàng của thần ái tình. Chàng yêu Mỵ Nương...!!!
Dĩ nhiên chàng phải quay về với thân phận ngư phủ. Nhưng từ đấy tiếng sáo càng hay, càng não nề, thổn thức vì trong đó neo gửi cả nỗi đau thất tình. Một nỗi đau ai oán, ngậm ngùi, sâu thẳm, quyết liệt, day dẳng...
Hình như trong mỗi chàng trai chúng ta đều có một Trương Chi nên thấu hiểu và thấu cảm cho nỗi đau của chàng, thông cảm nỗi đau tận cùng của một trái tim bị tổn thương. Nhưng nàng Mỵ Nương (và cả phái đẹp) thì không. Vì nàng tỉnh táo và vô tình! Nàng vẫn muốn nghe và chỉ yêu tiếng sáo đau khổ kia chứ không yêu người thổi sáo. Nàng đã hoàn toàn khỏe mạnh! Về phương diện này, nàng thua công chúa Tiên Dung trong thần thoại Chử Đồng Tử, dù có lá ngọc cành vàng, con gái Vua Hùng nhất nhì thiên hạ nhưng vẫn lấy làm chồng kẻ nghèo đến mức không có cả cái khố che thân. Đó là mối tình đẹp nhất trong văn học trung đại Việt Nam. Bình đẳng nhất, dân chủ nhất. Còn mối tình Trương Chi-Mỵ Nương là mối tình bi kịch đau khổ, ngang trái nhất!?
Một bi kịch tình yêu không lối thoát. Hai người quá xa nhau. Người quá đẹp, kẻ quá xấu. Nàng quá giàu, chàng quá nghèo. Một người cao sang, vương giả con quan, một kẻ thứ dân mạt hạng dưới đáy. Chàng quá si mê, nàng quá tỉnh táo!
Chàng trai nào đã như Trương Chi sẽ thấy cái chết của Trương là tất yếu, vì không thể sống thiếu tình yêu. Dù là ngư phủ, ở dưới nước cũng như ở trên cạn, nhưng chàng vẫn trầm mình xuống sông mà chết, càng cho thấy cái chết ấy quyết liệt, dữ dội đến mức nào.
Hồn Trương Chi vất vưởng (hồn những người chết oan thường hay vất vưởng!) rồi nhập vào một cây bạch đàn rất đẹp. Mỵ Nương thích quá sai chặt cây ấy về tiện thành chén uống nước. Mỗi khi rót nước, chén tỏa mùi thơm thoang thoảng thật dễ chịu, hình bóng Trương Chi hiện ra dưới đáy. Tiếng sáo ở đâu lại văng vẳng. Mỵ Nương thảng thốt. Nàng thương mình, thương người, nước mắt ứa ra. Một giọt rớt vào chén. Chén gỗ bỗng tan ra thành nước!!!
Câu chuyện là cả một khối mâu thuẫn lớn. Trương Chi quá xấu bên ngoài nhưng lại có tâm hồn thật đẹp bên trong. Có vậy chàng mới có tiếng sáo làm rung động trái tim Mỵ Nương. Nàng Mỵ Nương đang tuổi yêu đương hừng hực xuân tình lại bị cấm cung. Có thể coi đây là ý nghĩa lên án sự vô nhân đạo trong xã hội phong kiến cấm đoán xưa. Tương tư người thổi sáo vì bị tiếng sáo mê hoặc, nhưng có lẽ cơ bản hơn, trong tưởng tượng của nàng, tương ứng với tiếng sáo ấy sẽ là người tài năng mã thượng, đẹp trai xuất chúng. Không nên trách sự thất vọng của nàng. Vì đã là người, ai cũng thích, cũng yêu cái đẹp. Cũng không thể trách nàng không yêu Trương Chi, vì tình yêu là tự do... Nàng là người đáng mến vì biết thưởng thức, đam mê nghệ thuật, là người đáng phục vì biết thẩm định nghệ thuật đích thực. Những người như thế, ít nhất cũng là người tử tế!
Chàng Trương Chi đáng kính, đáng trọng, đáng phục vì đó là một tài năng nghệ thuật. Có trái tim và tâm hồn nghệ sĩ như thế thì chàng yêu Mỵ Nương cũng là tự nhiên. Chàng yêu mãnh liệt cũng thuận tự nhiên. Nhưng chàng chết là trái tự nhiên nên đáng thương, đáng tiếc. Bật toát ra một ý nghĩa: Ước ao con người không bị rơi vào bi kịch. Không có tình huống nào là đường cùng. Đừng như Trương Chi!
Nhìn từ lý thuyết đối thoại văn hóa hiện đại, truyện phát sáng thêm những vẻ đẹp mới.
Vượt lên trên câu chuyện của sự giàu-nghèo, đó là một triết lý về lý luận nghệ thuật. Thì ra người Việt xưa, dù nghèo nhưng có tâm hồn thật nghệ sĩ. Nghèo như chàng đánh cá Trương Chi cũng có tiếng sáo thuyết phục, chinh phục lòng người.
Truyện là sự minh họa cho định nghĩa của các nhà Nho: “Thơ (nghệ thuật) cùng dễ hay”. Là tiếng lòng nên thơ của những người cùng khổ thì dễ hay, cảm động. Cũng là quy luật tiếp nhận: Nghệ thuật đích thực là tâm hồn chân thành thì bao giờ cũng có “tri âm”. Tiếng lòng sẽ tìm đến tiếng lòng. Từ góc nhìn này cho thấy truyện mang ý nghĩa rất hiện đại, sâu sắc.
Đây là sự chứng minh quy luật sáng tạo nghệ thuật thường mang tính mâu thuẫn. Mâu thuẫn càng sâu thẳm, tác phẩm càng hay. Càng sa vào mâu thuẫn, tiếng sáo Trương Chi càng hay.
Truyện là tiếng nói đối thoại cực kỳ nhân bản. Sống “cấm cung” giữa cuộc đời, không giao tiếp với ai nên tiếng sáo Trương Chi là sự khát khao giao tiếp, nức nở và bi ai. Bị “cầm tù” trong cung cấm nên Mỵ Nương khát khao gặp người thổi sáo để giãi bày, trao gửi. Không được nên nàng ốm. Tình yêu là đối thoại. Không được yêu nên Trương Chi chết!
Mã văn hóa phong tục tượng hình trong chi tiết nước mắt Mỵ Nương làm cốc gỗ cũng tan thành nước là phái sinh từ tục kiêng: Người sống không được rỏ nước mắt vào quan tài người chết.
Ánh sáng văn hóa của thời đại luôn hắt bóng vào văn bản nghệ thuật. Nếu dòng sông Trương Chi trẫm mình có “nguyên mẫu” là dòng Tiêu Tương xứ Kinh Bắc thì cái quy định khắt khe của miền quan họ “liền anh, liền chị” dù yêu nhau đến mấy cũng không được lấy nhau đã ánh xạ vào truyện, rồi kết thành tình huống Trương Chi thất tình. Càng đau, tiếng sáo chàng càng hay. Cái quy định khắt khe ấy và cái tứ truyện là sự sinh động hóa một quy luật: Nghệ thuật là tình yêu, nghệ thuật là khát vọng. Nhưng là người, ai chả có tình yêu và khát vọng. Như thế chưa làm nên nghệ thuật. Phải là nỗi đau đớn yêu mà không được yêu. Phải là nỗi khao khát cực độ muốn thỏa mãn mà không được đáp ứng. Nỗi đau, nỗi khao khát ấy cứ bị đẩy lên, thăng hoa, dồn tụ rồi gửi cả vào từng con chữ, từng lời hát. Được vậy lời hát mới “có hồn”, tức hát bằng cả con tim khắc khoải, đau đớn của mình, bằng cả bi kịch con người mình.
Nghệ thuật là quá trình nuôi dưỡng khát vọng. Hết khát vọng là sự sống dừng lại, nghệ thuật cũng không còn. Truyện “Trương Chi” là một cắt nghĩa về nghệ thuật: Nghệ sĩ đích thực phải có một Trương Chi trong cuộc đời!
PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ