Đất nước của thi ca vốn khát khao và hiểu rất rõ giá trị của hòa bình. Ngay từ xa xưa, từ những miền quê hoang vu cho đến những kinh thành tấp nập, chỗ nào cũng có không gian để người ta ngập tràn lời ca. Lịch sử ca hát của nhân loại chắc chắn đã phải có từ rất lâu, vì âm nhạc là nơi dễ dàng để trong trắng biểu hiện sự chân thực của tình cảm. Tùy theo tâm trạng, sắc màu âm nhạc cũng thăng giáng không giống nhau. Và hiển nhiên, cho dù có nhiều dòng nhạc khác nhau thì đa phần cũng đều xuất xứ từ những giai điệu cổ truyền dân ca dân dã đậm đà dân tộc tính. Có thể nói, đây là nét màu chủ đạo của âm nhạc Việt.

Tâm hồn người Việt vốn dĩ phong phú, đương nhiên ca hát ở họ cũng sẽ đa dạng, bởi sâu xa họ không những hát hay mà còn hay hát. Nôm na sơ lược đếm thì Bắc Bộ có chèo, Trung Bộ có tuồng và Nam Bộ có đờn ca tài tử... Tất cả đều độc đáo, tinh tế nên cho dù có lả lơi hay vui nhộn, thì tất thảy đều làm người nghe nghẹn ngào, rưng rưng xúc động. Không phải ngẫu nhiên mà những làn điệu đối đãi giao duyên quan họ Kinh Bắc đã theo suốt những người lính nông dân Đồng bằng sông Hồng, làm dịu mát đi những rừng rực ác liệt từ cuộc chiến tranh vĩ đại chống Mỹ, cứu nước. Sự đa dạng này lại càng rõ nét khi phương Tây thời thượng đưa âm nhạc “son phe” bảy nốt vào cổ truyền ngũ cung. Từ thời người Pháp áp đặt văn hóa thực dân, các ca khúc đẫm đầy âm hưởng Việt và mang hình hài hiện đại đã ào ạt xuất hiện. Ở đây, vai trò của những nhạc sĩ thị dân khá quan trọng. Những Đặng Thế Phong, những Đoàn Chuẩn với những “Giọt mưa thu”, những “Gửi gió cho mây ngàn bay” v.v.. đã vang danh một kiểu hát. Nhiều người chuyên nghiệp chính thống lẫn nghiệp dư vỉa hè thường quen miệng gọi mấy đoản ca trữ tình đặc chất lãng mạn tiểu tư sản ấy là “nhạc vàng”.

leftcenterrightdel
Minh họa: KHÔI NGUYÊN 
Khi yêu và được yêu, khuôn mặt hạnh phúc của ái tình không phải lúc nào cũng là hớn hở vui. Có điều, giống như nguyên lý vận hành của một nền văn hóa phức hợp, đã có “âm” thì phải có “dương”. Đã có ôn nhu đàn bà thì phải có hào hùng đàn ông. Khi âm nhạc đã được phảng phất mềm mại tô “vàng” thì luôn tất yếu sẽ cuồn cuộn lẫm liệt “đỏ”. Giữa thập niên 80 của thế kỷ trước, người ta vẫn gọi "nhạc đỏ" là “ca khúc cách mạng”, thậm chí mạnh mẽ hơn, “ca khúc chính trị”. Đó là những ca khúc tuyệt hay, thường thôi thúc, động viên, định hướng mọi người hãy sống hòa chung vào lợi ích của cả cộng đồng. Cái “ta” là quan trọng, cái “tôi” là thứ yếu. Đương nhiên thôi, khi phải khuyến khích sản xuất và đánh giặc, ca từ sẽ mộc mạc nồng nàn trang nghiêm "Chân ta bước lòng ung dung tự hào, kìa nòng pháo vẫn vươn lên trời cao" ("Hà Nội niềm tin và hy vọng"-Phan Nhân). Thế mà khi kết hợp với một giai điệu không quá phức tạp, nó bỗng tạo ra một nhạc cảm tha thiết, thăm thẳm, hối thúc. Nghệ thuật chân chính cho phép bỏ qua mọi điệu đà lý thuyết, mục đích tối thượng của nó là làm sao lay động được tình cảm trong mỗi người.

Có lẽ được thăng hoa từ mục đích cao cả đó mà phần lớn các ca khúc "nhạc đỏ" thường dễ hát. Thời trong veo bao cấp, vào những ngày nghỉ cuối tuần chứ chưa cần là một dịp kỷ niệm ngày lễ lớn, ở những đô thị Hải Phòng hay Nam Định, đặc biệt ở Hà Nội, người ta luôn thấy một vài ban nhạc "gọn nhẹ", gọi nôm là “văn nghệ xung kích” biểu diễn ở một vài nơi quanh Hồ Gươm. Chỉ là hai cây ghi-ta, thêm một đàn “ắc coóc”, thêm một nữ ca sĩ trẻ là lập tức phố cất lời ca. Tiếng vẳng tới “míc” khuếch đại qua loa, làm đông đảo người nghe đứng dưới phấn khích ào ào vỗ tay ủng hộ. Mới nghiệp dư đã vậy thì chuyên nghiệp còn cảm động đến mức nào. Danh ca Quang Hưng với hai bài “Tôi là Lê Anh Nuôi” và “Anh quân bưu vui tính” hay Thúy Hà với “Cánh chim báo tin vui” thì dù ở quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục hoặc ở trước cửa Ngân hàng Trung ương, luôn kéo cả một biển người. Các “li vờ sâu” thời thượng của các “ông hoàng bà chúa” nhạc nhẹ bây giờ thua xa. Những ca từ tuy chân chất nhưng nồng nàn chính khí của "nhạc đỏ” luôn kết tụ mọi người cùng nhìn về một hướng, cùng chung tay làm một việc và cùng hát một bài ca. Có thể nói không ngoa rằng, nó là một trong những nguồn mạch kỳ diệu tạo sinh lực cho những ngày lễ lớn của dân tộc.

Nói như vậy không có nghĩa là "nhạc đỏ" không có những giai điệu xao xuyến trữ tình. Có điều, cảm xúc của nó thiên về bi tráng. Những xúc cảm được thăng hoa từ vô thức quật cường mang hồn cốt của một dân tộc thượng võ vốn bao đời xót xa vất vả đau thương. Nếu âm nhạc quá bi lụy thì làm sao từng người con của Đất mẹ Việt có thể “sáng chắn bão dông, chiều ngăn nắng lửa” được. Với tinh thần khát khao độc lập vô bờ: “Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng... Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”, thì màu của nhạc đương nhiên phải mang màu của lửa.

"Nhạc đỏ" khi được hát ở phố cổ có một kiểu quyến rũ khó tả. Những người có tuổi hôm nay nghe “Tình yêu trên dòng sông quan họ” mà như thấy hết được sự trữ tình, hào hùng, một cảm xúc sâu lắng, rực lửa trên những con phố hào hoa của một Hà Nội kiêu hùng. Hôm rồi, lần đầu tiên ra phố đi bộ quanh Hồ Gươm, bỗng được nghe mấy sinh viên trẻ trung ngẫu hứng chơi bài “Giai điệu Tổ quốc” trước đền Ngọc Sơn, Tháp Bút “tả thanh thiên”, chợt sâu xa thấy ùa về rưng rưng nguyên vẹn xúc cảm của một thời chưa xa.

NGUYỄN VIỆT HÀ