Hào khí dân tộc từ Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa…
Thật vậy, Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu (thế kỷ 14) là một thi phẩm bất hủ, đã tái tạo chiến công hiển hách của một dân tộc ba lần đánh thắng giặc Nguyên Mông: Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã/ Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao... Quang cảnh hoành tráng của trận thủy chiến lịch sử bừng bừng khí thế: Đương khi ấy thuyền tàu muôn đội/ Tinh kỳ phấp phới/ Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói/ Trận đánh được thua chửa phân/ Chiến lũy Bắc Nam chống đối. Ánh nhật nguyệt phải mờ/ Bầu trời đất chừ sắp đổi... Có thể nói, Bạch Đằng lịch sử và Bạch Đằng thơ ca đã đi vào tâm thức người Việt Nam từ đời này đến đời khác.
Áng hùng văn Bình Ngô đại cáo (năm 1428) của Nguyễn Trãi đã khắc bia trận Chi Lăng lịch sử: Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế/ Ngày hai mươi, trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu... Chiến dịch Chi Lăng-Xương Giang (từ ngày 8-10 đến 3-11-1427) đã quyết định sự thất bại hoàn toàn của quân xâm lược nhà Minh, để một năm sau, Nguyễn Trãi viết khúc khải hoàn Bình Ngô đại cáo, cất cao tiếng nói dân tộc tự hào đã quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược và tôn vinh tư thế của Việt Nam: Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập/ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương…
Và Hoan hô chiến sĩ Điện Biên (năm 1954) của Tố Hữu là một khúc tráng ca, một khúc khải hoàn, một bản tổng kết lịch sử bằng thơ cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp (1945-1954) của nhân dân Việt Nam. Từ đây bạn bè yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới thường hô vang “Việt Nam-Hồ Chí Minh-Điện Biên Phủ”. Một chính khách nước ngoài đã viết: “Điện Biên Phủ-một danh từ Việt Nam!”.
Nhà thơ Tố Hữu viết thiên anh hùng ca Hoan hô chiến sĩ Điện Biên là tựa vào cảm hứng lớn về lịch sử, thời đại và dân tộc trên đường chiến thắng. Bài thơ đã cất cánh bay cao, bay xa nhờ đôi cánh lớn của niềm vui chiến thắng bất tận: Kháng chiến ba ngàn ngày/ Không đêm nào vui bằng đêm nay/ Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực/ Trên đất nước, như huân chương trên ngực/ Dân tộc ta dân tộc anh hùng! Chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm nên trang vàng lịch sử Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, từ đây thế giới sẽ hiểu rõ hơn một dân tộc anh hùng: Điện Biên vời vợi nghìn trùng/ Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta/ Đêm nay bè bạn gần xa/ Tin về chắc cũng chan hòa vui chung…
Hình tượng người anh hùng thời đại
Nổi bật trên nền thơ hoành tráng là hình tượng người chiến sĩ anh hùng: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên/ Chiến sĩ anh hùng/ Đầu nung lửa sắt/ Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non/ Gan không núng/ Chí không mòn... Hình tượng người chiến sĩ-anh Bộ đội Cụ Hồ-luôn chiếm vị trí trung tâm trong thơ ca cách mạng nói chung, trong thơ Tố Hữu nói riêng. Nhà thơ đã dành một tình yêu, niềm ngưỡng mộ lớn lao cho người anh hùng thời đại. Trong Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, người chiến sĩ luôn đi hàng đầu, luôn nhận những hy sinh về mình: Những đồng chí thân chôn làm giá súng/ Đầu bịt lỗ châu mai/ Băng mình qua núi thép gai/ Ào ào vũ bão/ Những đồng chí chèn lưng cứu pháo/ Nát thân nhắm mắt còn ôm/ Những bàn tay xẻ núi lăn bom/ Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện…
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc ta là cuộc chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện, trường kỳ”. Vì lẽ đó, hình tượng nhân dân anh hùng bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với hình tượng người chiến sĩ đi tiên phong trong đấu tranh cách mạng. Có quân đội anh hùng là vì có nhân dân anh hùng, dân tộc anh hùng, Đảng anh hùng. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là chiến thắng của sức mạnh đoàn kết quân dân, một lòng vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Nhân dân hiện lên trong bài thơ qua hình ảnh những người dân công đã không tiếc sức lực và cả tính mạng của mình để bảo đảm điều kiện cho bộ đội đánh thắng quân thù trên tiền tuyến: Và những chị, những anh, ngày đêm ra tiền tuyến/ Mấy tầng mây gió lớn mưa to/ Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ/ Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát/ Dù bom đạn, xương tan thịt nát/ Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh/ Hỡi các chị, các anh/ Trên chiến trường ngã xuống/ Máu của anh chị, của chúng ta, không uổng/ Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam/ Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam/ Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng...
Một chiến dịch lịch sử thường gắn với tên tuổi một vị tư lệnh. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, vị Tư lệnh là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trong bài thơ dài 96 câu, chỉ có duy nhất một câu về Đại tướng, nhưng đâu cần nhiều lời: Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp! Một câu thơ giản dị, thậm chí có vẻ như chỉ là một khẩu hiệu, nhưng là tình, là nghĩa của nhà thơ với vị tướng cầm quân tài ba trong lịch sử quân sự Việt Nam. Nhưng vị chỉ huy tối cao cuộc chiến tranh giải phóng là lãnh tụ Hồ Chí Minh, người mà cả dân tộc Việt Nam gọi bằng cái tên thân thương: Bác Hồ. Vinh quang thuộc về dân tộc, nhưng vinh quang cũng thuộc về lãnh tụ Hồ Chí Minh: Vinh quang Tổ quốc chúng ta/ Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa/ Vinh quang Hồ Chí Minh, cha của chúng ta, ngàn năm sống mãi/ Quyết chiến thắng, cờ đỏ sao vàng vĩ đại… Nếu nói bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của nhà thơ Tố Hữu là một dàn đại hợp xướng âm vang tráng ca, khải hoàn, thì chính lãnh tụ Hồ Chí Minh là nhạc trưởng: Tiếng reo núi vọng sông rền/ Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ/ Bác đang cúi xuống bản đồ/ Chắc là nghe tiếng quân hò quân reo/ Từ khi vượt núi qua đèo/ Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày/ Tin về mừng thọ đêm nay/ Chắc vui lòng Bác, giờ này đợi trông…
Nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật
“Điện Biên Phủ-một danh từ Việt Nam” là cách nói so sánh một chiến công hiển hách khác nào một tấm huân chương vĩ đại ghi nhận chiến công chói lọi, chiến thắng kẻ thù xâm lược của nhân dân Việt Nam anh hùng. Nhà thơ Tố Hữu đã đưa địa danh Điện Biên Phủ vào thơ mình như một mối duyên tơ kỳ lạ giữa thi nhân và thời đại. Sau Hoan hô chiến sĩ Điện Biên viết tháng 5-1954, còn có: Lừng lẫy Điện Biên chấn động địa cầu (“Ta đi tới”, tháng 8-1954); Tin vui chiến thắng trăm miền/ Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về… (“Việt Bắc”, tháng 10-1954); Giáng một trận giập đầu quỷ dữ/ Sáng nghìn năm lịch sử Điện Biên… (“Quang vinh Tổ quốc chúng ta”, tháng 8-1955); Chín năm làm một Điện Biên/ Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng… (“Ba mươi năm đời ta có Đảng”, năm 1960); Tiếng hát xa đưa… Muôn tiếng hát/ Điện Biên trời đất dậy tin mừng (…) Điện Biên lừng lẫy Việt Nam ta” (Trường ca “Theo chân Bác”, năm 1970).
Poster phim “Ký ức Điện Biên” của Hãng Phim truyện Việt Nam sản xuất năm 2004.
Và danh từ “Điện Biên Phủ” cũng vang lên trong nhiều tác phẩm nổi tiếng của nhiều nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, họa sĩ… thuộc nhiều thế hệ. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi ngay sau ngày 7-5-1954 lịch sử cũng đã sáng tác bài thơ
Bài ca Điện Biên Phủ. Hiện lên trên nền bài thơ là quang cảnh chiến trường
Đất trời mờ sắt thép/ Chớp giật xé ngày đêm/ Lửa ào ào bùng cuộn/ Lấp những đồi cháy đen/ A một và C một/ Quần nát từng chiến hào/ Lăn vùi trong bụi đất/ Ta quên hết sớm chiều/ Mưa rơi bùn lõng bõng/ Bùn chảy lẫn máu tươi... Chiến trường đầy gian khổ, hy sinh nhưng không dập tắt được nụ cười lạc quan, yêu đời của người chiến sĩ Điện Biên:
Mặt anh đen khói đạn/ Bỗng nhoẻn ra nụ cười. Nhờ nụ cười chiến thắng đó mà người chiến sĩ lúc nào cũng thừa thắng xốc tới:
Dây thép gai chằng chịt/ Có phải đây Mường Thanh/ Ngã xuống lại chồm dậy/ Chiến sĩ vút lao nhanh... Và những người chiến sĩ Điện Biên vừa làm nên chiến thắng lẫy lừng, bỗng trở nên bình dị, gần gũi và đáng yêu vô cùng:
Đêm sáng trăng xanh lặng/ Rừng núi bỗng mênh mông/ Chiến sĩ tay cầm súng/ Đứng gác bên lửa hồng... Để rồi:
Sáng nay giữa Điện Biên dữ dội/ Những chiến hào bỗng thấy mùa xuân/ Ô lạ khắp mặt đồi đen trụi/ Hoa nghệ xôn xao nở tím hồng...
Danh từ “Điện Biên Phủ” đã đi vào văn, thơ, nhạc, họa… hơn sáu chục năm qua. Những nhạc phẩm nổi tiếng như: Hò kéo pháo của Hoàng Vân; Chiến thắng Điện Biên của Đỗ Nhuận; Qua miền Tây Bắc của Nguyễn Thành… đã để lại những giai điệu khó quên trong tâm trí nhiều thế hệ. Nhà thơ Xuân Diệu có một nhận xét rất tinh tế: “Không gì gợi nhớ quá khứ bằng những giai điệu và mùi hương quen thuộc”. Bức tranh Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ của họa sĩ Nguyễn Sáng đã trở thành tác phẩm kinh điển của nền hội họa cách mạng Việt Nam. Những bộ phim truyện nhựa: Hoa ban đỏ của đạo diễn Bạch Diệp; Ký ức Điện Biên của đạo diễn Đỗ Minh Tuấn… đã để lại trong tâm hồn các thế hệ công chúng những tình cảm cao thượng, tri ân sự hy sinh vô bờ bến của nhân dân anh hùng trong cách mạng và kháng chiến. Những cuốn tiểu thuyết có giá trị về Điện Biên Phủ được viết ngay sau dấu vết nóng hổi của sự kiện như: Cao điểm cuối cùng (năm 1960) của nhà văn Hữu Mai…
Ai đã một lần đến Điện Biên đều không thể không đến thăm Nghĩa trang Liệt sĩ Đồi A1, ở đó mỗi người sẽ ngộ ra được nhiều điều có ý nghĩa về lẽ sống. Đứng trước những nấm mồ khuyết tên của hàng nghìn liệt sĩ trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, nhà thơ Nguyễn Đình Thi tròn 40 năm sau trở lại Điện Biên (năm 1994) như muốn cùng đồng bào, đồng chí của mình khắc ghi một tình cảm: Đừng ai tới đây nhởn nhơ dối lừa/ Những núi biếc đứng trong mây/ Đang lắng nghe/ Bay trong làn gió/ Tiếng cười tiếng cười/ Ý nghĩ mỗi con người/ Ở Điện Biên…
BÙI VIỆT THẮNG